Phòng vệ của Việt Nam ngoài việc mua sắm, chế tạo VKTB
thì vấn đề quyết định nhất là xây dựng đường lối, chiến lược phòng vệ. Bởi vì
có như thế mới xác định được nội dung của công tác tổ chức xây dựng lực lượng,
bố trí, sử dụng lực lượng.
Chống tiếp cận
là chiến lược phòng thủ của một nước có bờ biển nhưng khả năng quân sự hạn chế,
bị các nước có vũ khí, phương tiện hiện đại hơn đe dọa dùng vũ lực.
Chiến lược
chống tiếp cận thực chất là sự kết hợp giữa các loại vũ khí tầm xa, tầm gần,
các hình thức tấn công, tác chiến phi đối xứng…nhằm mục đích không cho đối
phương tiếp cận gần bờ, bảo vệ khu vực biển của mình càng rộng càng tốt.
Khi một cuộc
chiến tranh hiện đại, công nghệ cao luôn bắt đầu từ hướng biển với tàu ngầm,
tàu nổi, tàu sân bay thì việc buộc các phương tiện đó dạt ra xa hay gây cho
chúng nhiều thiệt hại là điều mà các quốc gia bị tấn công mong muốn.
Chiến lược
chống tiếp cận đang phát sinh rất nhiều phiên bản và Việt Nam cũng đang xây dựng một phiên bản của riêng
mình, bởi thực ra Việt Nam
chưa từng và có đủ điều kiện để phòng vệ theo kiểu này.
Việt Nam là
một đất nước có chiều dài và hẹp cho nên rất nhạy cảm bởi sự chia cắt chiến
lược. Bởi vậy, đã qua rồi thời kỳ đón đợi giặc ở cửa sông, luồng lạch trong
vùng nội thủy hay lãnh hải, chúng ta ngày nay phải tác chiến ngay ở vùng biển
xa, tạo cho đất liền một không gian phòng thủ đủ rộng, một thời gian chuẩn bị
đối phó kịp thời. Đó cũng chính là tư tưởng, mục tiêu của chiến lược chống tiếp
cận của Việt Nam.
Cơ sở để Việt Nam
tiến hành thực hiện trước hết là lợi thế về địa lý.
Bờ biển Việt Nam
tuy dài nhưng có nhiều núi cao nhô ra biển, có hơn 3 ngàn hòn đảo lớn nhỏ tạo
nên một điểm tựa vững chắc triển khai lực lượng. Trường Sa là quần đảo tiền
tiêu của Tổ quốc có vị trí chiến lược trên biển Đông…đều là những vị trí tốt để
triển khai, bố trí lực lượng.
Việt Nam chủ
yếu là tự vệ nên khu vực tác chiến hầu như trên không phận, hải phận và các khu
vực mà Việt Nam có chủ quyền và quyền chủ quyền nên lực lượng cơ động nhanh, vũ
khí phương tiện luôn chiếm ưu thế tác chiến. Máy bay SU-30MK2 có thể tác chiến
trong khu vực phòng thủ mà không cần tiếp dầu, hoặc KILO, các loại tàu tấn công
khác hoạt động tương đối an toàn trong tầm hoạt động của lực lượng khác.
Thật ra, với
lực lượng tác chiến hiện đại ít ỏi như Gerpad, KILO, SU-30… của Việt Nam, nếu
như tác chiến ở biển xa, xa căn cứ hàng ngàn km thì chỉ một trận.
Tàu ngầm KILO
thực ra so với lực lượng tàu ngầm trong khu vực không phải là hiện đại gì cho
lắm, nhưng nó tỏ ra rất nguy hiểm, khó lường bởi cách bố trí, sử dụng nó. Chẳng
hạn, ở tuyến xuất phát tấn công của KILO, kể cả phục kích chống ngầm và chống
tàu mặt nước thì KILO hoàn toàn chiếm ưu thế, đó là, chỉ “săn” đối phương trong
khi đối phương rất khó khăn hoặc không thể “săn” lại KILO, vì muốn “săn” KILO
thì buộc phải vào tầm hỏa lực của các phương tiện khác như Bastion-P. (Tên lửa
Yakhon của hệ thống này với chiến thuật “bầy sói” thì tàu khu trục hiện đại
nhất như của Trung Quốc Tupe 054A ( mới có 4 chiếc) thì trong khoảng cách 300km
với 2 quả trúng đích là Thuyền trưởng tàu phải ôm phao cứu sinh).
Tuy nhiên đó
chỉ là lý thuyết và sẽ có khoảng cách với thực tế, nhưng khoảng cách này phụ
thuộc chủ yếu vào người sử dụng chúng, và, hiệu quả có khi vượt ra ngoài lý
thuyết là chuyện thường xảy ra trong cách sử dụng, khai thác vũ khí của người
Việt trong chiến tranh.
Như vậy khả
năng “áp sát”, “đánh vỗ mặt” vào Việt Nam từ hướng biển của kẻ thù bị ngăn cản,
buộc chúng phải dạt ra xa, phải tính toán lại vị trí xuất phát tấn công.
Hệ thống tên lửa bờ biển Bastition -
lực lượng chông tiếp cận hữu hiệu.
Mỗi tổ hợp tên lửa Bastion có thể bao gồm 36 quả tên
lửa có cánh Yakhont. Các tên lửa tự dẫn siêu thanh chống tàu với đầu đạn nặng
hơn 200 kg này có thể đánh trúng các mục tiêu ở khoảng cách lên tới 300 km. Mỗi
tổ hợp có thể bảo vệ dải bờ biển dài hơn 600 km và giám sát vùng biển có diện
tích 200 km2.
Cơ sở thứ hai
là Việt Nam
có một khung lực lượng tác chiến tầm xa cực mạnh, bao gồm những loại vũ khí
phương tiện hiện đại có tầm bắn xa, chính xác, sức hủy diệt lớn.
Khung lực
lượng tác chiến tầm xa hiện đại kết hợp với lực lượng tác chiến tầm gần uy lực
mạnh, tinh nhuệ thiện chiến là lực lượng chính yếu của chiến lược chống tiếp
cận. Nhưng hoạt động hiệu quả hay không, sẽ bắt đối phương phải trả giá đắt hay
không trước hết là khả năng chống trả và sống sót của đòn tác chiến điện tử áp
chế phòng không của kẻ thù làm “mù và điếc” hệ thống phòng không, thông tin chỉ
huy của Việt Nam để làm chủ vùng trời. Khi địch đã làm chủ vùng trời thì chiến
lược chống tiếp cận bị phá sản.
Trong chiến
tranh hiện đại, chỉ cần có một thời gian tính bằng phút là có thể thay đổi được
cục diện. Bởi vậy tạo ra một không gian, thời gian để cho hệ thống phòng không
đối phó, phát hiện và đánh chặn là nhiệm vụ rất hệ trọng của chiến lược chống
tiếp cận.
Việt Nam đã
từng đối đầu với một cuộc chiến tranh điện tử quy mô lớn do Mỹ triển khai hòng
đánh sập hệ thống phòng không Việt Nam cách đây 40 năm nhưng không thể. Ngày
nay, ngoại trừ Mỹ, khó có nước nào trong khu vực có đủ năng lực để tiến hành
một cuộc chiến tranh điện tử, áp chế phòng không gồm áp chế mềm, áp chế
cứng…như Mỹ cách đây 40 năm, trong khi Việt Nam đã thay đổi.
Các hệ thống
phòng không được xây dựng dưới dạng mạng lưới, qua đó, thông tin thu thập được
qua radar hay trinh sát quang học thông thường đều có thể chia sẻ cho khẩu đội
phòng không với tốc độ cao qua mạng lưới datalink; các tên lửa phòng không được
kết nối với nhau có thể được dẫn bắn từ một hay nhiều ra đa đặt cách xa nó;
xuất hiện pháo 37li cải tiến bắn bằng radar, quang học trong hệ thống phòng
không tầm thấp khủng khiếp, hiệu quả năm xưa; xuất hiện những dàn tên lửa phòng
không tầm xa cơ động như S-300 MPU1 bắn và di chuyển… thì việc tiêu diệt một
vài hệ thống radar là có thể. Nhưng để đánh quỵ khả năng phòng không Việt Nam
hòng làm chủ vùng trời của lực lượng thù địch hiện nay là không thể trong một
trận, trong một tháng, trong một năm.
Vì vậy cho nên
chống tiếp cận để làm chủ vùng trời và làm chủ vùng trời để chống tiếp cận là
tiền đề, điều kiện của nhau.
Cuối cùng là,
cách đánh sở trường của Việt Nam.
Đó là tư tưởng
quân sự “nếu những gì công nghệ không thể thì chiến thuật có thể”, thể hiện bản
lĩnh và trí tuệ luôn luôn khắc tinh của thói chủ quan, ngạo mạn, hiếu chiến,
cậy đông, vũ khí trang bị hiện đại công nghệ cao; đó là chiến tranh du kích
được phát triển lên tầm cao mới bởi vũ khí không phải như vũ khí của du kích
ngày xưa; đó là…vân vân và vân vân.
Chiến lược
chống tiếp cận của Việt Nam
xem ra rất khả thi bởi hình thành trên cơ sở xem ra cũng độc đáo và vững chắc.
Hay
Trả lờiXóa