Chủ Nhật, 22 tháng 12, 2013

MỤC TIÊU CHÍNH CỦA TÀU NGẦM VIỆT NAM: sÂN BAY VÀ TÀU SÂN BAY.

“Chống lưng” cho không quân Việt Nam.
Sự xuất hiện đúng lúc của lữ đoàn tàu ngầm Việt Nam sẽ có tác dụng rất lớn trong việc “chống lưng” cho không quân Việt Nam. Điều nghe vô lý, khập khểnh, nhưng hoàn toàn thực tế.
Nhiều chuyên gia quân sự nước ngoài cho rằng Việt Nam xây dựng lữ đoàn tàu ngầm theo “chu trình ngược”. Nghĩa là thay vì phải xây dựng một lực lượng săn ngầm mạnh thì Việt Nam lại xây dựng lữ đoàn tàu ngầm, bởi 6 chiếc tàu ngầm Việt Nam không thể đối đầu với hơn 70 chiếc tàu ngầm đủ loại của Trung Quốc…
Nhưng, thứ nhất là, Việt Nam thành lập lữ đoàn tàu ngầm không phải để đối đầu hay tấn công Trung Quốc mà chỉ để phòng thủ trên “sân nhà”, nơi có địa thế lợi hại trong một khu vực có vị trí chiến lược quan trọng.
Thứ hai là , giả sử Việt Nam có mua sắm nhiều phương tiện săn ngầm hiện đại như P1 của Nhật Bản, P-8A của Mỹ…cùng các tàu săn ngầm hiện đại nhất thế giới thì liệu những phương tiện đó có không gian để săn ngầm đối phương hay không? Chắc chắn không vì khi đó vùng trời đã bị đối phương khống chế, làm chủ thì P1 hay P8…đều trở thành kẻ bị săn.
Như vậy, đối tượng tác chiến chủ yếu của tàu ngầm Việt Nam không phải là hơn 70 chiếc tàu ngầm Trung Quốc là rõ ràng.
Chiếm ưu thế tác chiến trên không của vùng biển để làm chủ hoàn toàn vùng trời trên vùng biển nơi xảy ra tác chiến của lực lượng không quân, không quân hải quân là nhiệm vụ trọng yếu mang tính chiến lược mà lực lượng tàu ngầm Việt Nam phải bằng mọi cách để đạt được.
Địa lợi vốn dĩ đã tạo ra cho Việt Nam ưu thế đó và tàu ngầm Việt Nam phải tác chiến để duy trì ưu thế đó.
Chúng ta thừa biết cho đến thời điểm này, ngoài Mỹ ra chưa có một quốc gia nào có thể có ưu thế tuyệt đối khi tác chiến trên vùng trời của vùng biển quần đảo Trường Sa trừ Việt Nam. Bởi lẽ, chỉ có Mỹ mới có tàu sân bay còn quốc gia nào không có tàu sân bay thì quần đảo Trường Sa nằm ngoài tầm bay của máy bay họ, kể cả Trung Quốc, ít nhất sau năm 2016 mới có thể có tàu sân bay đúng nghĩa (Vì thế, cho nên dù rất muốn nhưng Trung Quốc cũng chưa thể tuyên bố ADIZ trên Biển Đông là vậy, tuy nhiên, cũng có nhiều học giả Trung Quốc đã quá sốt ruột, họ hô hào Trung Quốc cho tàu sân bay Liêu Ninh xuống Biển Đông để khống chế vùng trời thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Tiếc thay các học giả quá khích, “vô tích sự” này đâu biết rằng hiện tại cái gọi là tàu sân bay Liêu Ninh của họ chưa đáp ứng được một phần trăm điều họ kỳ vọng).
Không quân, Hải quân Việt Nam còn ít về số lượng, nếu không quân địch chiếm ưu thế trên vùng trời quần đảo Trường Sa, tức là gần hơn ta, nhiều hơn ta, điều này chỉ xảy ra khi chỉ khi tàu sân bay ngang nhiên hoạt động mà khộng bị trừng trị, lúc đó “thế” bị mất, “lực” thì yếu, Việt Nam sẽ gặp vô vàn khó khăn.
Vì vậy, sân bay và tàu sân bay là mục tiêu chính, hàng đầu của tàu ngầm KILO Việt Nam nhắm tới.
Tiêu diệt tàu sân bay, đánh phá sân bay địch đồng nghĩa với duy trì lợi thế cho không quân làm chủ vùng biển, quần đảo, bảo đảm cho không quân phát huy sức mạnh quyết định của tác chiến không đối hạm.
Chúng ta đã quá hiểu biết về sự thống trị vùng trời, yếu tố quyết định thành bại trong chiến tranh hiện đại vũ khí công nghệ cao. Bởi vậy, chừng nào không quân và không quân hải quân của Việt Nam còn có ưu thế khi tác chiến trên vùng trời của vùng biển xa, đảo xa như trên quần đảo Trường Sa chẳng hạn thì chưa phải là lúc địch dám liều lĩnh tấn công.
Và, đó có lẽ cũng chính là sức mạnh răn đe mà tàu ngầm Việt Nam tạo ra lớn hơn bất cứ lực lượng nào có thể.
Có thể tiêu diệt được tàu sân bay hay không?
Để tiêu diệt một tàu sân bay Mỹ, mạnh như Hải quân Trung Quốc cũng phải mất toi 40% lực lượng.
Xem ra, tiêu diệt được một chiếc tàu sân bay (trên giấy tờ, tính toán) hiện nay ở vùng khơi xa là một bài toán khó, phức tạp chưa có lời giải.
Tuy nhiên, tàu sân bay Mỹ kéo đến eo biển Đài Loan thử xem hay tàu sân bay Liêu Ninh đi sâu vào phía Nam Biển Đông thử xem…lúc đó thì bài toán sẽ bớt phức tạp hơn và chắc chắn sẽ có lời giải.
Điều đó có nghĩa là không gian địa lý chật hẹp sẽ hạn chế rất nhiều khả năng bảo vệ của tàu sân bay.
Chẳng hạn, cái khó khăn đầu tiên để xác định tọa độ tàu sân bay đã được đơn giản bởi một hệ thống quan trắc, chỉ thị mục tiêu tầm gần luôn có độ chính xác và hiệu quả cao. (Chắc chắn khi tàu sân bay Mỹ đi đâu thì Nga, Trung Quốc luôn có lực lượng bám theo để chỉ thị mục tiêu và đương nhiên khi chiến tranh xảy ra thì chúng là lực lượng tế thần đầu tiên. Nhưng khi tàu sân bay Liêu Ninh đến Biển Đông thì Việt Nam chẳng cần vậy.)
Hoặc do phải chống lại hay phải tránh đòn đánh từ đất liền (điều kiêng kị của bất kỳ hạm đội tàu sân bay nào) cho nên cái “ma trận” khủng khiếp, bất khả xâm phạm của nó khi ở ngoài khơi dứt khoát buộc phải thay đổi…
Đó cũng chính là cơ sở cho Việt Nam “đặt bút” giải bài toán này dù rằng lực lượng không nhiều. (Nếu như Trung Quốc đang có ý đồ sử dụng tàu sân bay để khống chế vùng trời quần đảo Trường Sa của Việt Nam thì chẳng ai ngạc nhiên và thắc mắc “giả thiết của bài toán” mà Việt Nam “đặt bút” và may sao, chắc chắn nó đơn giản hơn nhiều lần cái hạm đội tàu sân bay Mỹ.)
Nguyên tắc cơ bản trong ý đồ tác chiến của Việt Nam là phát huy địa lợi, kết hợp chặt chẽ giữa chiến thuật và công nghệ, những gì công nghệ chưa thể thì chiến thuật bổ sung nhằm tạo ra một phương án tấn công khả thi.
Mới đây Hoàn cầu Thời báo cho rằng Việt Nam chi tiền khủng xây dựng lữ đoàn tàu ngầm KILO hiện đại, tiên tiến hơn KILO của Trung Quốc để có được một “con bài” chơi với Trung Quốc trên Biển Đông. Trong khi đó, Tân Hoa xã thì cho rằng Việt Nam đang xây dựng “khu mai phục tàu ngầm” để hướng đến “cổng vào” eo biển Malacca”…
Tất cả những điều đó về mục đích thì còn tùy, chưa thể khẳng định đúng sai, nhưng về nội dung thì có vẻ như hoàn toàn trùng hợp với tư tưởng, nghệ thuật quân sự mà Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo đã dạy cho con cháu Việt Nam là “quân cốt tinh, không cốt đông” hay “lấy ít đánh nhiều thường dùng mai phục” thì chẳng cần phải bàn.
Tiêu diệt một tàu sân bay là vô cùng khó khăn, gian nan và sẽ bị nhiều tổn thất với giá đắt theo như tính toán về mặt lý thuyết. Thực tế là từ khi kết thúc chiến tranh thế giới đến nay, lực lượng bảo vệ cho tàu sân bay hiện đại, tiên tiến gấp nhiều lần nhưng lại chưa có cuộc tấn công nào vào hạm đội tàu sân bay cả, thậm chí ngay Trung Quốc trong hai lần khủng hoảng eo biển Đài Loan, chưa đánh đã phải khuất phục khi nó tiến vào, chứng tỏ nó rất đáng sợ, nguy hiểm.
Tuy nhiên, với Việt Nam, bất kỳ hạm đội tàu sân bay nào mà xâm phạm chủ quyền biển đảo thì dù chúng có sức mạnh khủng khiếp “bất khả xâm phạm” đến cỡ nào, Việt Nam cũng dám đánh, quyết đánh và sẽ có cách đánh.
Chẳng phải Điện Biên Phủ mà cả Pháp lẫn Mỹ trước khi chưa bị quân đội Việt Nam tấn công đều khẳng đinh, tự hào, khoe khoang là cứ điểm “bất khả xâm phạm”, là “cối xay thịt bộ đội Việt Nam” đó sao?
Chẳng phải Mỹ, không những thế,ngay cả các cường quốc cũng đã từng cho rằng "B-52 là pháo đài bay bất khả xâm phạm" đó sao?

Thứ Tư, 18 tháng 12, 2013

TẠI SAO TÀU NGẦM VIỆT NAM ĐÁNG SỢ?

Chào mừng tàu ngầm Hà Nội đã gia nhập vào quân đội Nhân dân Việt Nam. Bắt đầu từ đây Việt Nam đã có thứ vũ khí mới rất “vừa tay”, hợp lối đánh sở trường, hợp địa lợi để tự vệ chính đáng bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Nghiên cứu lịch sử quân sự Việt Nam trong quá trình chiến tranh giải phóng cũng như bảo vệ Tổ quốc thì giới quân sự đều phải công nhận Việt Nam lúc này có sự chuẩn bị kỹ càng nhất, bài bản nhất, thực lực khởi điểm mạnh nhất và thậm chí, có những lực lượng quân sự mang tính đột phá, lại còn chiếm ưu thế hơn so với đối tượng được coi là mối nguy cơ, thách thức đến an ninh chủ quyền Việt Nam.
Chưa xuất hiện nhưng đã có rất nhiều đánh giá, bình luận về việc 6 chiếc tàu ngầm mà Việt Nam sở hữu trong năm 2016. Nào là “tàu ngầm KILO thay đổi cán cân quân sự trên Biển Đông”; “sức mạnh Hải quân Việt Nam có bước phát triển nhảy vọt”…và ngay cả Trung Quốc, một cường quốc khu vực có lượng tàu ngầm gấp hơn 10 lần nhưng cũng tỏ vẻ lo ngại, thậm chí cho rằng nó “nguy hiểm đến an ninh quốc gia Trung Quốc!!!”…
Tại sao tàu ngầm Việt Nam được giới quan sự quan tâm?
Vì tàu ngầm KILO của Việt Nam quá hiện đại tiên tiến vượt trội các loại tàu ngầm khác trong khu vực chăng?
Không phải! KILO của Việt Nam chẳng là gì so với hơn 70 chiếc tàu ngầm lớp này lớp kia của Trung Quốc và đặc biệt chẳng thấm vào đâu so với tàu ngầm Soryu công nghệ AIP của Nhật Bản.
Vì do Hải quân Việt Nam sử dụng tàu ngầm quá tài giỏi chăng?
Cũng không phải! Kinh nghiệm chiến đấu và kinh nghiệm sử dụng tàu ngầm của Việt Nam chỉ là con số “0”, bởi đây là lữ đoàn tàu ngầm đầu tiên trong biên chế tổ chức của Hải quân Việt Nam.
Vậy thì sự đánh giá đó xuất phát từ cơ sở nào?
Chính xác, giới quân sự quan tâm đến tàu ngầm Việt Nam bởi 2 khía cạnh. Một là địa thế nơi nó hoạt động có tạo ra mối nguy hiểm cực kỳ, khó đối phó cho mục tiêu mà nó nhắm tới hay không và địa thế đó có một vị trí như thế nào trên Biển Đông và trong khu vực Châu Á-TBD. Hai là tư tưởng và hình thức tác chiến của tàu ngầm Việt Nam như thế nào.
Địa thế và vị trí Việt Nam trong tác chiến ngầm.
Rất đơn giản và dễ hiểu là vì tàu ngầm KILO được giới quân sự mệnh danh là “lỗ đen” trên đại dương, nghĩa là có tính bí mật rất cao, lại nằm trong tay Việt Nam, một quốc gia có vị trí chiến lược rất quan trọng trên Biển Đông với một địa thế quân sự rất hiểm hóc, công thủ đều lợi hại.
Với một “địa thế” như vậy chỉ cần có một “lực” nhỏ tối thiểu cũng tạo ra được một sức mạnh đáng nể, một thế trận vững chắc.
Với một địa thế như vậy thì tàu ngầm KILO sẽ phát huy hết sở trường, ưu thế vốn có của nó và do vậy độ nguy hiểm mà nó đem đến cho kẻ thù là cực cao.
Với một địa thế như vậy lại nằm trong một vị trí có tầm quan trọng chiến lược, đó là án ngữ tuyến đường hàng hải huyết mạch từ Ấn Độ dương sang TBD là “con đường sống” cho nền kinh tế nhiều quốc gia, cường quốc…thì không quan tâm không được.
Sẽ ra sao nếu như eo biển Malacca bị một chiếc tàu ngầm của Malaisia hay của Singapo cùng với mấy quả thủy lôi bịt lối?...
Đó là lý do vì sao khi Việt Nam chỉ mới sở hữu một số lượng tàu ngầm ít ỏi mà đã khiến cho ai đó có sự lo ngại và giới quan sát, quân sự lại quan tâm.
Tư tưởng và hình thức tác chiến của tàu ngầm Việt Nam.
Sẽ chẳng bao giờ có một tờ báo nào, bài báo nào có thể, có khả năng nêu được cái nghệ thuật tác chiến ngầm của Hải quân Việt Nam, bởi lẽ những tài liệu đó bao gồm như: Chiến thuật ngầm trong phục kích, rải thủy lôi; chiến thuật ngầm trong bí mật vận động bám sát mục tiêu; chiến thuật ngầm trong hợp đồng đưa đón đặc công nước; chiến thuật ngầm trong tấn công vào sân bay bến cảng; vân vân và vân vân thì đang có ở Phòng tác chiến-Bộ Tham mưu Hải quân với dấu tuyệt mật đỏ chót.
Nhưng về tư tưởng tác chiến (cũng như tư tưởng quốc phòng) thì chúng ta chẳng có gì phải giấu giếm.
Quả thật là với hơn 3000 km đường bờ biển, với hơn 1 triệu km vuông phải bảo vệ thì với 6 chiếc tàu ngầm chỉ là “muối bỏ bể”. Chúng ta không hy vọng tàu ngầm KILO sẽ thực hiện chiến thuật “giăng mành”…để tiêu diệt tàu ngầm đối phương hay vận động tấn công vào các khu trục hạm của địch…các lực lượng khác sẽ chia xẻ nhiệm vụ này.
Do đó, tư tưởng chỉ đạo tác chiến là tàu ngầm Việt Nam đã đánh là phải tổ chức đánh hiểm, ưu tiên những mục tiêu mang tầm chiến lược, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế, quân sự của đối phương.
Chẳng hạn tấn công vào các đoàn tàu vận tải quân sự, các tuyến đường hàng hải quan trọng của đối phương; tấn công vào tàu sân bay địch…
Thứ hai trong tư tưởng tác chiến thì lấy hình thức phục kích (dấu hiệu cơ bản của phòng thủ, tự vệ, không đe dọa tấn công ai) là lối đánh sở trường, chủ yếu.
Con Hổ rượt đuổi để vồ mồi (rượt-vồ) bao giờ cũng tốn sức và có kết quả thấp hơn con Hổ ngồi rình chờ con mồi đi qua để vồ (rình-vồ). Hình thức “rượt-vồ” chỉ xảy ra trên một khu vực rộng mênh mông mà không thể dùng trên một khu vực chật hẹp, có nhiều độc đạo…là nơi chỉ hợp với cách “rình-vồ”. “Rình-vồ” ở những khu vực đó thì xác suất thành công gần như 100%.
Biển Đông đã trở nên quá chật hẹp khi có quá nhiều KILO và các chủng loại tàu ngầm khác nên rất phức tạp khi xác nhận bạn, thù mà sai lầm có thể gây ra thảm họa. Vì thế tàu ngầm hoạt động tác chiến trong khu vực đó càng đơn lẻ, có tính độc lập cao bao nhiêu càng có hiệu quả bấy nhiêu.
Mặt khác, bề dày kinh nghiệm hoạt động tàu ngầm Việt Nam còn mỏng, cho nên việc vận động tiếp cận, tấn công mục tiêu cần phải có thời gian để thuần thục. Trong khi đó, với địa thế “đắc địa” của Việt Nam thì tàu ngầm chúng ta có rất nhiều vị trí để “rình” (phục kích), những vị trí đó là những vị trí mà “con mồi” phải đi qua và buộc phải đi qua.
Chính vì thế mà “rình-vồ” là hình thức tác chiến tối ưu nhất và nguy hiểm khó lường nhất của lực lượng tàu ngầm Việt Nam gây ra cho đối phương.
“Rình-vồ” trong thời chiến là tàu ngầm Việt Nam bí mật chờ đợi trong vùng “biển sạch”, khi mục tiêu xuất hiện đúng tầm hỏa lực là ấn nút.
“Rình-vồ” trong thời bình là tàu ngầm Việt Nam bí mật bám sát thường xuyên các mục tiêu chiến lược như tàu sân bay, các tuyến hàng hải quan trọng của đối phương…để khi chuyển sang trạng thái chiến tranh, có lệnh là ấn nút.
Địa lợi, vị trí chiến lược và tư tưởng chỉ đạo sử dụng chúng là điều duy nhất khiến cho giới quân sự đối phương lo sợ trước việc xuất hiện tàu ngầm Việt Nam trên Biển Đông dù cho số lượng và chất lượng chẳng thấm vào đâu với họ.
Nếu như chuyên gia quân sự của Nga nhận xét rằng: “Tàu ngầm KILO chỉ cần một quả tên lửa thì tàu sân bay cỡ Liêu Ninh của Trung Quốc chìm nghỉm” là đúng, thì…coi thường 6 chiếc tàu ngầm KILO của Việt Nam chỉ gồm những kẻ “diều hâu không tỉnh táo”.
Tuy nhiên, tàu ngầm Việt Nam chỉ phòng thủ, tự vệ, trong chủ quyền biển đảo Việt Nam mà không đe dọa, không đủ sức đe dọa đến chủ quyền biển đảo của quốc gia nào.

Thứ Ba, 10 tháng 12, 2013

ADIZ CỦA VIỆT NAM TRÊN BIỂN ĐÔNG, TẠI SAO KHÔNG?



Điều khẳng định chắc chắn là nếu quốc gia nào lập khu nhận dạng phòng không trên Biển Đông thì sẽ có nhiều vùng chồng lấn rộng lớn lên chủ quyền, quyền chủ quyền hợp pháp của Việt Nam.

Ngay tại khu vực nhận dạng phòng không (ADIZ) của Trung Quốc trên biển
Hoa Đông cũng đã chồng lấn lên chủ quyền và quyền chủ quyền của 2 quốc gia là Hàn Quốc và Nhật Bản, còn Đài Loan thì chúng ta không quan tâm ở đây tuy rằng họ hô hào phản đối và cũng thay lời muốn nói cho Trung Quốc dọa dẫm các nước ĐNA, chẳng hạn họ cảnh báo rằng Hoa Đông chỉ là đòn nghi binh, Biển Đông mới thật sự đòn chính của Trung Quốc, rồi thì dọa dẩm, khuyên răn theo kiểu “Đài Loan phải báo cáo kế hoạch bay với Trung Quốc cho an toàn”…
Nếu ADIZ trên Biển Đông thì ngoài Việt Nam sẽ có nhiều quốc gia khác như Philippin, Malaisia, Brunei, Indonesia…cũng bị rơi vào hoàn cảnh tương tự.
ADIZ của Trung Quốc trên biển Hoa Đông bị phá như thế nào?
Việc 2 chiếc B-52 bay vào ADIZ của Trung Quốc khiến giới quan sát vỡ vạc ra nhiều vấn đề.
Mỹ không sử dụng F-22 vì F-22 hay B1, B2 gì đó là vì đây là những loại máy báy tàng hình, nếu sử dụng hóa ra Mỹ sợ Trung Quốc nên chỉ lén lút mà không dám công khai . Trong khi đó B-52 không phải là máy bay tàng hình (thế giới công nhận như vậy) thì bay vào đó là bay vào công khai cho đồng minh và thế giới biết.
Điều đáng buồn là Trung Quốc không phát hiện ra B-52 mà chỉ biết khi Mỹ công bố sau đó 7 tiếng đồng hồ.
Nên nhớ rằng khi Trung Quốc đã tuyên bố ADIZ trên biển Hoa Đông thì Bộ quốc phòng của họ đã chuẩn bị đầy đủ mọi phương tiện cần thiết chứ không phải suông vì đây là tuyên bố tầm quốc gia của một siêu cường đang cố chứng minh cho thế giới biết sức mạnh của mình. Khi đó, bất kỳ một chiếc máy bay nào vào đó đều bị phát hiện và nhắc nhở ngay để thể hiện uy danh cường quốc chứ không phải chuyện đùa.
Nhưng cũng nên hiểu rằng, phát hiện ra máy bay B-52, trên thế giới này chỉ có Việt Nam. Việt Nam phát hiện được B-52 không phải chỉ bằng kỹ thuật đơn thuần mà bằng cả chiến thuật và rất nhiều máu xương…chứ không dễ dàng như mấy ông tướng diều hâu tưởng tượng.
Vì thế Mỹ dùng B-52 là đắc sách là nước cờ cao, vừa kiểm tra năng lực “nhìn” của Trung Quốc, vừa đề phòng khỏi mất mặt nếu bị Trung Quốc phát hiện ra rồi phát lời cảnh báo.
Phát hiện ra B-52 Mỹ bay vào không phận hay không hay chỉ thấy trên màn hình radar bị nhiễu nặng, là cách mà B-52 thường tạo ra, thì chỉ Trung Quốc biết. Chỉ biết rằng, khi không phát hiện được B-52 bay vào lãnh hải, lãnh thổ, thì…coi như xong. Trung Quốc đừng huênh hoang và còn rất nhiều việc để làm.
B-52 còn chưa phát hiện ra thì máy bay ném bom hiện đại B-2 của Mỹ sẽ làm mưa làm gió bất cứ đâu trên không phận Trung Quốc.
Theo hành động của Mỹ, Hàn Quốc cũng không thèm “báo cáo”, bay vào ADIZ như chưa hề có tuyên bố của Trung Quốc. Trong khi đó thì Nhật Bản hành xử còn rắn hơn…nhưng Trung Quốc chưa có hành động nào cứng rắn để thực thi, ngoại trừ có nhiều hãng hàng không trình kế hoạch bay với Trung Quốc do vì tiền, vì an toàn cho hành khách.
Điều này chứng tỏ Trung Quốc chưa đủ khả năng sức mạnh để trấn áp buộc các quốc gia khác phải thực thi trên ADIZ của mình trên biển Hoa Đông.
Việt Nam và ADIZ trên Biển Đông.
Khu vực nhận dạng phòng không của quốc gia nào đó lập ra là buộc các máy bay của các hãng hàng không báo cáo kế hoạc bay, các máy bay quân sự cũng phải vậy. Nếu có hướng, hành động ảnh hưởng đến an ninh của quốc gia thì lập tức sẽ dùng biện pháp phòng không khẩn cấp.
Điểm đăc biệt của ADIZ trên Biển Đông là do Biển Đông là hẹp nên ADIZ luôn chồng lấn lên chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia xung quanh, ngoại trừ do chính các nước xung quanh tự lập ra trong khu vực EEZ của mình.
Điều khẳng định chắc chắn là nếu như có quốc gia nào đó lập khu nhận dạng phòng không trên Biển Đông thì sẽ có nhiều vùng chồng lấn rộng lớn lên chủ quyền, quyền chủ quyền hợp pháp của Việt Nam.
Khu “nhận diện phòng không” và khu vực “cấm đánh bắt” về hình thức khác nhau, nhưng về tính chất thì không khác nhau là đều buộc các quốc gia khác thực thi yêu cầu của mình trong khi chính mình lại không nằm trong phạm vi điều chỉnh (đương nhiên) trên khu vực đó.
Việt Nam đã có kinh nghiệm và đối sách có hiệu quả trong khu vực “cấm đánh bắt” mà Trung Quốc tuyên bố (phi lý, phi pháp), nhưng Philippin, theo khả năng của mình, cũng có sách lược khá hay, đó là lập tức tuyên bố khu vực mà Trung Quốc tuyên bố cũng là khu vực “cấm đánh bắt”.
Điểm duy nhất khiến ta chú ý trong cách này của Philippin là “anh cấm tôi thì tôi cũng cấm anh”, nghĩa là trong khu vực đó anh cũng phải và cũng bị trấn áp nếu không tuân thủ.
Bởi vậy, nếu như quốc gia nào tuyên bố ADIZ xâm hại đến chủ quyền và quyền chủ quyền của chúng ta thì Việt Nam cũng tuyên bố ADIZ của mình ngay và lập tức tại khu vực đó, đồng thời, được mở rộng để phục vụ yêu cầu của chiến thuật phòng thủ khẩn cấp.
Tại sao không? Điều này vừa khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền hợp pháp nhưng cũng khẳng định quyền tự vệ chính đáng của chúng ta.
Việt Nam từ xưa tới nay, khi bất kỳ kẻ thù nào xâm phạm đến chủ quyền thì dù chúng hung bạo bao nhiêu cũng không sợ, dù có phải tiến hành chiến tranh để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng cũng sẵn sàng.
Trước việc Trung Quốc lập ADIZ trên biển Hoa Đông, dư luận đang lo ngai Trung Quốc sẽ tiến hành lập các ADIZ khác mà chủ yếu là trên Biển Đông khiến dư luận quốc tế lo ngại.
Điều đặc biệt nguy hiểm là khi Mỹ phát hiện và khẳng định khả năng của Trung Quốc sau vụ B-52 thì Mỹ có khả năng sẽ “chơi con bài Trung Quốc” mạnh dạn hơn, sâu hơn.
Đó là, Mỹ đánh vào tâm lý của chủ nghĩa dân tộc cực đoan của Trung Quốc, “bật đèn xanh”, khuyến khích để Trung Quốc lập ADIZ trên Biển Đông gây căng thẳng trong khu vực để Mỹ trục lợi.
Việt Nam và Trung Quốc quá hiểu nhau và quá hiểu Mỹ, cho nên, chắc chắn đôi bên sẽ có những tham vấn cần thiết, những đối sách cần thiết để Biển Đông ổn định, hòa bình, phát triển thịnh vượng.

Thứ Hai, 9 tháng 12, 2013

LIỆU TRUNG QUỐC LẬP ADIZ TRÊN BIỂN ĐÔNG HAY KHÔNG?


Rõ ràng là không ai có thể nghi ngờ ý định tham vọng của Trung Quốc, nhưng không phải lúc nào muốn cũng được. Điều kiện khách quan, chủ quan có cho phép hay không mới là quyết định...
Tại sao Trung Quốc lập khu nhận diện phòng không trên biển Hoa Đông trước Biển Đông?
Sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự xoay trục của Mỹ sang châu A-TBD đã tạo ra trên khu vực này một cuộc chiến địa chính trị khốc liệt, căng thẳng. Đồng thời tranh chấp vùng biển giàu tài nguyên, đường hàng hải quan trọng đã khiến cho các nước trong khu vực với Trung Quốc có nguy cơ xảy ra xung đột cao trước hành động đơn phương, đề cao sức mạnh của Trung Quốc…
Có thể nói khu vực châu Á-TBD đã như là một chiển trường của cuộc chiến tranh lạnh kiểu mới rất căng thẳng. Trung Quốc đang rất bức bối khi đang cố thoát ra khỏi sự bao vây của Mỹ và đồng minh trong chuỗi đảo thứ nhất.
Trong tình thế đó, Trung Quốc tuyên bố khu nhận dạng phòng không trên biển Hoa Đông. Đây là lần đầu tiên, Trung Quốc lập quy tắc chơi trong khu vực không tiếp giáp trực tiếp với lãnh thổ quốc gia của mình và được coi như một thách thức rất nghiêm trọng với Mỹ bởi lẽ 70 năm nay, chỉ có Mỹ, Nhật Bản nêu quy tắc ở đây.
Tất nhiên Trung Quốc đã tính rất kỹ khi chọn khu vực này.
Trước hết về vị trí địa lý, đây là khu vực gần trước cửa nhà nên Trung Quốc có điều kiện (lợi thế) để có thể dùng lực lượng không quân và các phương tiện khác trấn áp buộc đối phương thực thi những điều kiện do mình áp đặt, xuất phát từ đất liền mà không cần tàu sân bay hay máy bay tiếp dầu…khi thực thi nhiệm vụ, trong khi Nhật Bản cách xa Senkaku Điếu Ngư hơn Trung Quốc khoảng 200km. Nếu Nhật Bản không khuất phục, đụng độ có xảy ra thì Trung Quốc có đủ tự tin chiến thắng.
Thứ hai là, đối tượng mà Trung Quốc nhắm tới trực tiếp là Nhật Bản, một quốc gia có năng lực quân sự, kinh tế tương đương, đồng minh của Mỹ, một liều thuốc thử cực mạnh.
Nếu sau khi triển khai thành công (Nghĩa là Nhật Bản phải xin phép, cúi đầu khuất phục, còn Mỹ làm ngơ…), thì chiến lược chống tiếp cận của Trung Quốc không đánh mà thắng, lúc đó Trung Quốc tự nhiên có 2 thông điệp hoành tráng cho các nước ASEAN:
Thông điệp thứ nhất, Nhật Bản mạnh như thế, đồng minh quan trọng, lâu đời với Mỹ như thế mà Trung Quốc ra tay là cúi đầu, Mỹ cũng phải thúc thủ.
Và, thông điệp thứ hai, nếu quốc gia nào còn phản đối khu nhận diện phòng không của Trung Quốc, còn nghe theo Nhật, Mỹ thì… hãy coi lại thông điệp thứ nhất.
Phải công nhận rằng Trung Quốc tuyên bố khu nhận dạng phòng không trên biển Hoa Đông là đã chọn đúng tử huyệt để ra đòn phản công. Nói là tử huyệt bởi lẽ khi bị điểm sẽ gây ra sự rung động toàn cục, toàn chuỗi đảo được coi như là để bao vây Trung Quốc bị mất sự không chế vùng trời. Khi Trung Quốc làm chủ vùng trời thì có nghĩa là làm chủ tất cả, là quy luật của chiến tranh hiện đại.
Tuy nhiên, tìm ra hay nhìn thấy được tử huyệt là quan trọng nhưng năng lực tổ chức thực hiện để ra đòn dứt điểm mới quyết định vấn đề. Nếu ra đòn vào tử huyệt, là đòn hiểm mà không dứt điểm được có nghĩa là người ra đòn đã chơi với tử thần.
Trung Quốc tuyên bố lập khu nhận dạng phòng không trên biển Hoa Đông là đòn hiểm nhằm vào tử huyệt, nhưng tiếc thay chưa đủ lực để làm cho đối phương tê liệt.
Điều bất ngờ xảy ra là trong khi Nhật Bản tỏ ra hết sức kiềm chế thì Mỹ, có vẻ như ngoài cuộc mà Trung Quốc không nhắm tới, lại lao vào chơi rất rắn, không ngại va chạm mà thế giới theo dõi đã biết.
Hành động của Mỹ một mặt là cảnh cáo Trung Quốc, sẵn sàng tham gia trực tiếp để bảo vệ lợi ích quốc gia. Mặt khác, Mỹ muốn chứng tỏ cho đồng minh biết Mỹ có thừa khả năng nói “không” với Trung Quốc, đồng thời, ngăn ngừa Nhật Bản tái vũ trang quá đà, khó kiểm soát.
ADIZ trên Biển Đông, lúc nào và nơi đâu?
Trước tình thế này, nếu Trung Quốc lập khu nhận dạng phòng không trên Biển Đông chẳng hạn như trên không phận của cái gọi là thành phố Tam Sa…thì sao?
Trên khu vực đó thì không quân Trung Quốc chưa đủ khả năng để phòng thủ khẩn cấp khi cần thiết, họ còn đang chờ có tàu sân bay.
Khu vực nhận dạng phòng không này nếu lập ra sẽ đụng tới nhiều bên tranh chấp rất quyết liệt và hầu như nằm ngay trước cửa nhà của họ mà máy bay, các phương tiện phòng không khác đều đủ sức thực thi chủ quyền của mình. Chưa hết, khu vực này còn liên quan đến lợi ích quốc gia của nhiều cường quốc khác nữa như Nga, Ấn Độ...mà Trung Quốc phải suy nghĩ nhiều lần.
Nhật Bản đang chờ Trung Quốc tuyên bố thành lập khu vực nhận dạng phòng không trên Biển Đông để ra đòn. Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe cho biết nước này “sẽ xử lý vấn đề ADIZ của Trung Quốc một cách bình tĩnh và kiên quyết, bằng cách phối hợp chặt chẽ với cộng đồng quốc tế”. Đó là gì nếu như không phải là thành lập khối các nước phản đối khu vực nhận dạng phòng không phi pháp của Trung Quốc?
Đây là điều mà Trung Quốc chẳng bao giờ muốn, bởi vì có nghĩa là Trung Quốc đã đẩy ASEAN vào vòng tay Nhật Bản trong khi thực chất cái gọi là Khu vực nhận dạng phòng không cũng chẳng có ý nghĩa gì với các nước này, nó cũng như các vùng cấm đánh bắt trên biển mà Trung Quốc đơn phương đặt ra thôi nhưng mà cái mất thì quá lớn.
Khi nước cờ trước bị lộ, bị phá thì nước cờ sau sẽ khó lòng tồn tại, và nếu cứ cố tình đi tiếp nước cờ sau thì vô nghĩa. Cho nên, tuyên bố khu nhận dạng phòng không trên biển Đông chỉ có thể là sản phẩm của những viên tương diều hâu nhưng “không tỉnh táo” mà thôi.
Với diễn biến ngày càng bất lợi, ngày càng núng thế, không lường trước khi tuyên bố khu nhận dạng phòng không trên biển Hoa Đông của Trung Quốc, chúng ta nhận thấy có 2 khả năng có thể xảy ra:
Trong tương lai gần, Trung Quốc chưa tuyên bố khu nhận dạng phòng không của họ trên Biển Đông, bởi lẽ cuộc chiến địa chính trị giữa Mỹ và Nhật Bản với Trung Quốc xảy ra trên khu vực ĐNA này cũng mang tính chiến lược sống còn của Trung Quốc và chiến lược xoay trục sang châu Á-TBD của Mỹ. Mất khu vực này Trung Quốc không có hy vọng gì khi đối đầu với Mỹ, Nhật Bản.
Tuy thế, khi Trung Quốc tuyên bố khu vực nhận dạng phòng không dù ở đâu thì cũng đều là nguy hiểm không trước mắt thì lâu dài cho khu vực. Khu vực đó trước mắt không thực thi được thì khi mạnh lên Trung Quốc sẽ thực thi. Có ai nghĩ rằng cái đường lưỡi bò mà chính quyền Tưởng vạch ra năm 1946 mà bây giời Trung Quốc cũng lấy đó để biến Biển đông thành ao nhà…
Vì thế, các quốc gia phải cảnh giác, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn những đòi hỏi, áp đặt phi lí, phi pháp nếu xảy ra là không phải không nghĩ đến.

Chủ Nhật, 8 tháng 12, 2013

Góc nhìn của lính:

THẤT BẠI ĐAU KHÔNG THỂ KÊU
TRONG TRẬN “ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG”?

Trong chiến dịch Linebacker II (“Cứu bóng trước khung thành”) mà Mỹ tiến hành, do bóng không cứu được nên bị thủng lưới, Mỹ phải rời sân chịu thua.
Cứ lấy theo nghĩa của bóng đá thì Mỹ thua, cả thế giới đều rõ, nhưng còn có một kẻ thua đau hơn Mỹ nữa, đó là kẻ “bán độ”.

Trở ngược lại thời gian, chúng ta cần biết rõ hơn một chút về nguyên nhân chính trị để có cái Linebacker 2 này mà không cần quan tâm đến nguyên nhân quân sự.
Đó là, Mỹ muốn sau khi rút quân khỏi miền Nam Việt Nam thì ở đó tồn tại một thực tế giống như bắc và nam Triều Tiên. Do vậy sau khi rút, Mỹ cần hạn chế sức mạnh quân sự của Bắc Việt, đưa Bắc Việt vào “thời kỳ đồ đá” để tạo lợi thế cho Nam Việt, Mỹ đã thể hiện sức mạnh bằng chiến dịch Linebacker2.
Âm mưu này của Mỹ đã được thỏa thuận, trao đổi, mặc cả với Trung Quốc xong xuôi đâu vào đấy trong “Thông cáo chung Thượng Hải” mà Trung Quốc ký với Mỹ ngày 28/02/1972. Theo đó có 3 nội dung cần quan tâm, nói là quan tâm bởi vì 3 nội dung này Mỹ và Trung Quốc đều “thỏa thuận trên lưng nhân dân Việt Nam”:
Thứ nhất, Trung Quốc cam kết không can thiệp quân sự vào Đông Dương, đổi lại Hoa Kỳ cam kết cùng Trung Quốc chống bá quyền Liên Xô.
Thứ hai, Trung Quốc chấp nhận kiềm chế Việt Nam, đổi lại, Hoa Kỳ hạn chế, đi đến triệt tiêu các căn cứ quân sự, và quân đội Hoa Kỳ tại Đài Loan.
Thứ ba, Trung Quốc chấp nhận để Hoa Kỳ giữ nguyên chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, không ủng hộ việc thành lập Chính phủ Liên hiệp miền Nam sau khi có Hiệp định về hòa bình ở Việt Nam, đổi lại, Hoa Kỳ ủng hộ Trung Quốc giữ ghế thành viên cố định tại Hội đồng Bảo an liên hợp quốc, thay Đài Loan. (Thực chất duy trì tình trạng chia cắt 2 miền Nam-Bắc VN)
Đến đây, Bắc Việt chỉ còn Liên Xô thì chẳng còn gì để “băn khoăn” trong suy nghĩ của Mỹ, chiến thắng với Mỹ dễ như lấy đồ chơi trong túi. Mỹ “chỉ còn việc nhìn về Mátxcơva và nghiền nát Việt Nam”.
Rõ ràng Trung Quốc đã “bán đứng Việt Nam” để thu được một món lợi rất lớn mà bằng khả năng Trung Quốc không bao giờ có được. Ai mang ơn ai?
Nhưng Mỹ bị mắc 2 sai lầm nghiêm trọng dẫn đến bị “hố” trong “Thông cáo Thượng Hải”:
Một là, Mỹ không hiểu dân tộc Việt. Việt Nam từ cổ chí kim, đối với Trung Quốc, sách lược có thể mềm dẻo nhưng chưa bao giờ làm “chư hầu” cho Trung Quốc mà luôn luôn thực hiện một nguyên tắc bất di bất dịch “độc lập dân tộc”. Mỹ chẳng hiểu gì về lịch sử hơn 4000 năm giữ nước của Việt Nam, đánh nhau liên miên với ai chẳng lẽ vì điều khác sao?.
Hai là, Trung Quốc lúc đó chẳng ghê gớm gì như Mỹ tưởng. Trung Quốc có muốn cũng không thể giúp gì cho Việt Nam bắn rơi B52 và thậm chí nếu như Mỹ lúc đó đem B52 rải thảm ở Bắc Kinh thì đó mới là nơi biến thành “thời kỳ đồ đá” chứ không phải Hà Nội.
Rốt cuộc, đánh giá 3 nội dung trong Thông cáo Thượng Hải ta thấy, nội dung thứ nhất, Mỹ được lợi hơn Trung Quốc, vì không cam kết thì Mỹ vẫn chống Liên Xô ( và nay, đến giờ là Nga, Mỹ vẫn không tha), còn Trung Quốc thì việc chống Liên Xô hay Nga bây giờ là vấn đề tất yếu, Mỹ không cần khuyến khích, nhắc nhở.
Nội dung thứ hai thì cả hai đều có lợi, đã có kết quả như mong muốn. Trung Quốc chỉ cần cắt giảm viện trợhoặc gây khó khăn cho Việt Nam khi tiếp nhận hàng viện trợ từ Liên Xô thì coi như là kiềm chế sự tấn công của Bắc Việt. Điều này nằm trong tầm tay của 2 bên mà không phụ thuộc vào Việt Nam có muốn hay không.
Nội dung thứ ba thì Trung Quốc và Mỹ đều thất bại trong âm mưu duy trì tình trạng chia cắt 2 miền Nam-Bắc Việt Nam. Đương nhiên rồi, vì quyết định không phải do ý muốn chủ quan của Trung-Mỹ mà là do dân tộc Việt Nam quyết định.
Trong nội dung này, nếu như đặt “vấn đề Linebacker 2” ra một bên thì có vẽ như Trung Quốc được lợi lớn là “Hoa Kỳ ủng hộ Trung Quốc giữ ghế thành viên cố định tại Hội đồng Bảo an liên hợp quốc, thay Đài Loan”. Thực ra nội dung này, Mỹ, Trung không cần phải thỏa thuận vì cả hai có cùng một mục đích giống nhau. Vậy thì cái lợi thu được của Mỹ trong nội dung này nằm ở đâu? Nó nằm ở đây: Trung Quốc “im lặng” cho Mỹ muốn làm gì ở miền Bắc Việt Nam thì làm, miễn sao miền Bắc Việt Nam dưới trận đòn của Mỹ sẽ kiệt quệ không còn khả năng thống nhất 2 miền, dễ sai khiến, tạo lợi thế cân bằng cho miền Nam Việt Nam khi Mỹ rút.
Đây là câu kết trong nội dung thứ 3 mà Mỹ, Trung Quốc thỏa thuận ngầm, không đưa vào văn bản. Xem ra, tại thời điểm lúc ký thông cáo Thượng Hải, Mỹ cũng chả dại tý nào.
Và cái gì đến sẽ đến, chiến dịch Linbacker 2 đã được tiến hành với 12 ngày đêm trên bầu trời Hà Nội. Bản lĩnh Việt Nam, trí tuệ Việt Nam đã tạo nên một danh từ “Điện Biên Phủ trên không”
Trận “Điện Biên Phủ trên không”, Mỹ đã thua cuộc. Ngay cả khi thua, Mỹ cũng rất minh bạch rằng, nếu tiếp tục thì máy bay B-52 sẽ tuyệt chủng. Vậy thì Mỹ dại gì, Mỹ vốn thực dụng mà.
Trong khi đó có kẻ khác, trong trận “Điện Biên Phủ trên không” này cũng thua lây, thua đau hơn Mỹ, khi âm mưu, chiến lược ngàn đời của họ bị hoàn toàn phá sản, nhưng không thể kêu, cho nên, họ chỉ biết nén đau để hành động trả thù bỉ ổi, dã man, tàn bạo, sau này mà thế giới đã đang và sẽ chứng kiến.
Còn giờ đây trên Biển Đông???

VIỆT NAM KHÔNG DỰA VÀO AI HẾT.

Việt Nam chủ trương từng bước hiện đại hoá quân đội, tăng cường tiềm lực quốc phòng chỉ nhằm duy trì sức mạnh quân sự ở mức cần thiết để tự vệ. Việt Nam phản đối các hoạt động chạy đua vũ trang. Việt Nam chủ trương không đe doạ hoặc sử dụng sức mạnh quân sự trước trong quan hệ quốc tế nhưng sẵn sàng và kiên quyết giáng trả mọi hành động xâm lược.
Mấy ngày gần đây, sau chuyến thăm của Tổng thống Nga Putin, tờ Hoàn cầu thời báo đăng bài rêu rao cho rằng: “Việt Nam dựa vào Nga để đối phó Trung Quốc”. Thực ra, lâu nay giọng điệu chủ nghĩa dân tộc cực đoan, quá khích của Hoàn cầu thời báo thì chẳng ai lạ gì, chẳng ai tin, chẳng dọa được ai và chẳng ai quan tâm như trước. Tuy nhiên chưa hết, Tân hoa xã thì lại khác, tờ báo chính thống này do nhà nước quản lý, cho rằng việc tàu ngầm Việt Nam xuất hiện sẽ tạo ra “mối de dọa cho an ninh Trung Quốc”…Tất cả những biểu hiện đó, có vẻ như truyền thông Trung Quốc cố tình xuyên tạc, kích động, hướng dẫn dư luận Trung Quốc hiểu sai Việt Nam, gây thù hằn dân tộc.
Việt Nam không dựa vào ai hết.
Thực hiện chính sách quốc phòng độc lập, tự chủ, Việt Nam xây dựng sức mạnh quốc phòng bằng nguồn lực mọi mặt của đất nước và con người Việt Nam. Vì vậy, Việt Nam chủ trương không tham gia các tổ chức liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của mình để chống lại nước khác. Điều này chứng tỏ Việt Nam chẳng dựa vào ai mà chỉ dựa vào chính mình.
Vần đề là, Việt Nam chú trọng phát triển quan hệ quốc phòng với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, cùng có lợi. Việt Nam coi trọng hợp tác quốc phòng với các nước láng giềng, bạn bè truyền thống đồng thời phát triển quan hệ quốc phòng với tất cả các nước có chung mục tiêu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
Việc Việt Nam và Nga hợp tác chặt chẽ, quan hệ thân thiết là vì cả hai đều tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau và cùng có lợi cho sự phát triển đất nước. Việt Nam mua vũ khí Nga, có những thứ cần thiết của Nga trong tay… là phải bằng tiền, Nga chẳng “cho không” vì lý do nào, thuận mua vừa bán.
Điều quan trọng là khi đã tin cậy lẫn nhau, không bao giờ phản bội nhau…thì bất cứ lĩnh vực nào cũng có thể chia xẻ được với nhau. Việt Nam và Nga là như thế và chẳng phải Trung Quốc và Nga đã có lúc như thế hay sao?
Khi lòng tin về nhau đã cao dày, không chỉ mua của Nga mà Việt Nam sẵn sàng mua cả công nghệ vũ khí của Mỹ. Liệu Hoàn cầu thời báo có cho rằng Việt Nam dựa vào Nhật Bản khi Nhật Bản bán cho Việt Nam dây chuyền công nghệ chế tạo vũ khí hay không khi điều đó xảy ra?
Như vậy Việt Nam quan hệ với bất cứ quốc gia nào để hiện đại hoá quân đội, tăng cường tiềm lực quốc phòng chỉ nhằm duy trì sức mạnh quân sự ở mức cần thiết để tự vệ (đương nhiên là không chống nước thứ 3 nào đó) nếu quốc gia đó tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam.
Trung Quốc có gì mà phải đối phó!
Thật là điên rồ khi Việt Nam, một quốc gia nhỏ bé, đang phát triển vừa thoát ra khỏi cuộc chiến tranh dài nhất thế giới lại chủ động đi chống một cường quốc đất rộng người đông có chung biên giới trên bộ, trên biển là Trung Quốc, một đất nước đang có GDP chỉ sau Mỹ, đang “trỗi dậy hòa bình”, hợp tác hữu nghị, thân thiện với các láng giềng trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau để cùng phát triển hòa bình ổn định!!!
Từ xưa tới nay, Việt Nam luôn bị Trung Quốc từ phương Bắc, Pháp, Mỹ từ phương Tây tấn công xâm lược chứ có bao giờ Việt Nam làm điều ngược lại và cũng từ xưa tới nay Việt Nam buộc phải luôn luôn nâng cao cảnh giác, đối phó căng thẳng với những âm mưu thâm độc nhằm xâm hại chủ quyền, sẵn sàng giáng trả để giữ vững độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ với một tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, chứ chưa bao giờ Trung Quốc nơm nớp lo sợ biên giới phía Nam bị xâm phạm như phía Bắc và phía Đông Trung Quốc.
“Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”, hãy thử soi xem thời gian gần đây nhất Trung Quốc làm gì nên nổi mà khiến Việt Nam phải đối phó?
Đánh chiếm Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974.
Đánh chiếm vài bãi đá ngầm và đảo nổi tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam năm 1988.
Từ năm 2010 trở lại đây tuyên bố Biển Đông là của Trung Quốc, là “ao nhà” của Trung Quốc, Trung Quốc chiếm toàn bộ Trường Sa của Việt Nam trên văn bản hành chính (chỉ có giá trị đối với họ) khi họ thành lập cái gọi là “thành phố Tam Sa”…
Tiếp theo Trung Quốc tăng cường tiềm lực quân sự, đặc biệt là Hải quân. Tổ chức các cuộc tập trận lớn, phô trương thanh thế, với giả định đánh chiếm đảo trên Biển Đông.
Chủ nghĩa dân tộc cực đoan được “bật đèn xanh” hô hào tấn công Việt Nam để mở đường xuống phía Nam, đe dọa sử dụng vũ lực…
Với những diễn biến như vậy là rõ rồi, Nga, Nhật Bản hay Mỹ không làm vậy với Việt Nam. Nếu Trung Quốc là Việt Nam thì Trung Quốc sẽ làm gì?
Trước hết, mặc dù có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý chứng minh chủ quyền không thể tranh cãi đối với các vùng biển, đảo của Việt Nam trên Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam vẫn sẵn sàng đàm phán hoà bình để giải quyết các tranh chấp dựa trên các quy định của Công ước 1982 về luật biển của Liên hợp quốc.
Và cuối cùng là phải chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ cần thiết đủ để bảo vệ vững chắc các vùng biển đảo của mình đề phòng trường hợp đối phương sử dụng vũ lực để “thay đổi hiện trạng”.
Sự xuất hiện 6 tàu ngầm KILO thuộc Lữ đoàn tàu ngầm Việt Nam (so với hơn 70 chiếc tàu ngầm lớn nhỏ của Trung Quốc) mà Tân hoa xã cho là “tạo ra mối nguy hiểm cho an ninh Trung Quốc” là chuyện siêu hoang tưởng, chỉ phục vụ cho kích động dân chúng Trung Quốc.
Rõ ràng tàu ngầm Việt Nam và các loại vũ khí hiện đại khác mà Việt Nam mua sắm, chế tạo là để phòng thủ, bảo vệ chủ quyền hợp pháp của mình, không đe dọa tấn công xâm lược ai.
Vậy, phải chăng an ninh Trung Quốc được định nghĩa là “Đề cao sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền”, cho nên, chống lại điều này (trong đó có nhiệm vụ của tàu ngầm Việt Nam) là thách thức đến an ninh Trung Quốc?
Nếu thế thì…cả thế giới này là của Trung Quốc, tiếc thay chưa phải.
Giá như không có ai đó đề cao sức mạnh đơn phương, không có những đòi hỏi phi lý, không có những hành động hung hăng, bất chấp...Giá như Biển Đông là một vùng biển ổn định, hòa bình, các tranh chấp đều được giải quyết bằng biện pháp hòa bình theo luật pháp quốc tế, Biển Đông không có cái “đường lưỡi bò” của Trung Quốc vạch ra…thì Việt Nam chẳng phải tốn tiền mua tàu ngầm.
Lịch sử không có “giá như”, nhưng những điều “giá như” này đang tồn tại trong hiện tại và tương lai cho nên nó có thể thay đổi bởi nhận thức của con người.
Việt Nam rất mong muốn như vậy và cố gắng làm mọi điều có thể, bởi đây là hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trên Biển Đông. Việt Nam chủ trương không đe doạ hoặc sử dụng sức mạnh quân sự trước trong quan hệ quốc tế nhưng sẵn sàng và kiên quyết giáng trả mọi hành động xâm lược.

Chủ Nhật, 1 tháng 12, 2013

3 SAI LẦM CỦA TRUNG QUỐC KHI LẬP KHU NHẬN DIỆN PHÒNG KHÔNG TRÊN BIỂN HOA ĐÔNG



Dư luận Trung Quốc đặc biệt giới quá khích, chủ nghĩa dân tộc cực đoan được phen hỷ hả ra mặt sau khi BQP Trung Quốc tuyên bố khu vực nhận diện phòng không trên biển Hoa Đông. Mũi tên đã được Trung Quốc bắn đi và đã có kết quả ban đầu khi các hãng hàng không lớn của Hàn, Úc… chấp nhận báo kế hoạch bay cho Trung Quốc và ngay cả Cục Hàng không dân dụng Nhật Bản và Đài Loan cũng khuyến cáo “các hãng hàng không hết sức cẩn thận” trong khu vực trên.
Khu nhận diện phòng không của một quốc gia thực chất là các điều kiện buộc tất cả các quốc gia khác phải thực thi trên không phận khu vực đó.
Khu nhận diện phòng không là hợp pháp khi không phận thuộc chủ quyền quốc gia được thế giới công nhận.
Do vậy, để tuyên bố khu vực này, quốc gia tuyên bố phải đủ mạnh để dùng bạo lực khi cần thiết trấn áp quốc gia nào không thực thi luật pháp hay điều kiện của quốc gia mình trên đó. Và cũng có nghĩa là đối tượng mà quốc gia tuyên bố hướng tới là những quốc gia nhỏ, yếu hơn mình nếu như đó là khu vực đang tranh chấp.
Khu vực nhận dạng phòng không này thường xuất hiện trong tranh chấp lãnh thổ, còn trong chiến tranh, khu vực này được hiểu như là khu vực cấm bay…
Trung Quốc tuyên bố khu vực nhận dạng phòng không trên biển Hoa Đông (ECSADIZ) chồng lấn lên chủ quyền của 2 quốc gia khác là Nhật Bản và Hàn Quốc, cho nên, thực chất đây là hành động tranh chấp chủ quyền mà đối tượng duy nhất chủ yếu là Nhật Bản.
Có thể nói trong thời điểm này, việc Trung Quốc tuyên bố ECSADIZ chính là bước leo thang cực kỳ nguy hiểm, điều đó có nghĩa là sẽ có ẩn chứa những tính toán sai lầm mà hoặc là phải xuống thang hoặc là không kiểm soát tình thế dẫn đến chiến tranh tương tàn của 2 nước và thậm chí khu vực và thế giới.
Thứ nhất là Trung Quốc đánh giá quá thấp Nhật Bản.
Loại trừ trường hợp mục đích lập ECSADIZ của Trung Quốc là muốn thế giới công nhận có sự tranh chấp chủ quyền tại Senkaku/Điếu Ngư giữa Trung Quốc và Nhật Bản mà bấy lâu nay Trung Quốc muốn Nhật Bản công nhận nhưng Nhật Bản gạt phắt, ngoài ra thì chỉ có thể là đánh giá thấp, quá thấp Nhật Bản.
Trên Biển Đông, Trung Quốc đã từng đơn phương cậy mạnh tuyên bố vùng cấm đánh bắt nhằm khẳng định chủ quyền (phi lý, phi pháp) trong tranh chấp với đối tượng là các nước yếu, nhỏ. Tuy nhiên, nếu áp dụng chiến thuật này với Nhật Bản là sai lầm lớn.
Nhật Bản là một cường quốc kinh tế, quân sự tại châu Á không kém gì Trung Quốc. Vậy cơ sở nào để Trung Quốc buộc Nhật Bản phải thực thi những điều kiện mang tính áp đặt cường quyền trên khu vực mà Nhật Bản coi là chủ quyền của họ? Trung Quốc sẽ dùng sức mạnh quân sự hay sức mạnh kinh tế?
Trung Quốc chẳng có thể dùng được gì cả. Đụng vào Nhật Bản, chưa tính đến yếu tố Mỹ thì ít nhất cả 2 cùng bị tương tàn và chưa biết chừng “lời nguyền Nhật Bản”, Trung Quốc một lần nữa lại không thể hóa giải nổi.
Dĩ nhiên, Trung Quốc thừa biết ông Shinzo Abe tuyên bố coi ECSADIZ “hoàn toàn vô giá trị đối với Nhật Bản”. Sự kiện máy bay chiến đấu của Nhật Bản truy đuổi máy bay Trung Quốc ngay sau khi Trung Quốc tuần tra khu vực vừa tuyên bố đã chứng tỏ điều đó.
Nhưng nếu như Nhật Bản có hành động chiến tranh bằng tuyên bố sẽ bắn hạ UAV của Trung Quốc thì Trung Quốc tuyên bố ECSADIZ.
Đây có thể coi là hành động rất rắn của Trung Quốc không những để đáp trả xứng đáng hành động của Nhật Bản mà còn thách thức ngạo mạn đến 70 ngàn quân Mỹ cùng phương tiện chiến tranh quanh đó.
Có thể nói, lao lên tấn công để gỡ hòa, Trung Quốc đã mắc sai lầm thứ hai:
Khiến Mỹ xóa bỏ vai trò trung lập.
Thực tế khu vực Châu Á-TBD, Mỹ đã cố tỏ ra trung lập (vì thực dụng) trong vấn đề tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc với Nhật Bản, Philipin (đồng minh của Mỹ) và Trung Quốc cũng không ngừng, không quên yêu cầu Mỹ phải “tránh xa”. Đành rằng có sự ràng buộc khá lớn kinh tế của Trung Quốc và Mỹ, nhưng khi lợi ích quốc gia, toàn cầu của Mỹ bị Trung Quốc qua mặt như muốn “thay đổi hiện trạng khu vực Châu Á-TBD” chẳng hạn là điều không thể.
Sau tuyên bố ECSADIZ của Trung Quốc thì Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel ngay lập tức nhắc nhở Trung Quốc rằng quần đảo tranh chấp Điếu Ngư/Senkaku nằm trong khu vực được Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật, có nghĩa là Washington sẽ bảo vệ đồng minh Tokyo nếu khu vực này bị tấn công.
Cứng rắn hơn, ông Hagel cho biết 70.000 quân đội Mỹ tại Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ không tôn trọng tuyên bố của Trung Quốc.
Liệu khi Mỹ và Nhật Bản bay vào ECSADIZ thì Trung Quốc có dám dùng biện pháp phòng thủ khẩn cấp hay bắn hạ như ông Doãn Trác phán hay không?
Hành động theo đó của Mỹ là máy bay B-52 vẫn chao lượn trong khu vực ECSADIZ bất chấp tuyên bố của Trung Quốc nhưng chưa thấy hành động của Trung Quốc là gì để chứng tỏ khả năng trấn áp, thực thi luật của mình trên đó.
Còn nhớ, cũng chính Trung Quốc trong vụ khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ 3, Mỹ ra tay buộc Trung Quốc phải xuống thang, vậy lần này, tương quan lực lượng vẫn không thay đổi, Mỹ và Nhật Bản sẽ làm gì, bằng kinh tế hay quân sự để buộc Trung Quốc phải xuống thang?
Vậy là rõ ràng, yếu tố Mỹ được khẳng định trong tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư, đó là cùng Nhật Bản giáng trả.
Điều này là rất quan trọng khiến cho Nhật Bản sẽ có những hành động, đối sách cụ thể “rắn” hơn với Trung Quốc trong nay mai về đối nội cũng như đối ngoại. Trung Quốc đã thay Nhật Bản nói lời muốn nói, đã buộc Mỹ lộ nguyên hình sách lược với Nhật Bản.
Cuối cùng làTrung Quốc lộ rõ bản chất bành trướng, bá quyền.
Tuyên bố ECSADIZ của Trung Quốc đã vấp phải sự phản đối của nhiều quốc gia bởi trước hết là ECSADIZ của Trung Quốc là không hợp pháp, là sản phẩm của sự cậy mạnh, ngang ngược.
Đồng thời với hành động này, Trung Quốc tuyện bố tiếp theo là sẽ lập cái gọi là những khu nhận dạng phòng không (phi pháp) khác nữa khi chuẩn bị đủ diều kiện. Trong khi đó, Biển Đông chưa phải giới hạn cuối cùng cái lợi ích cốt lõi của Trung Quốc, các quốc gia thuộc khu vực châu A-TBD không phải quốc gia nào cũng mạnh như Nhật Bản…thì liệu vùng trời, vùng biển sẽ bị Trung Quốc làm chủ hết không, có quốc gia nào dám đối đầu với Trung Quốc
Có thể nói, tình hình khu vực châu Á-TBD hiện nay có thể xảy ra 2 khả năng.
Thứ nhất, nếu khu vực nhận dạng phòng không của Trung Quốc trên biển Hoa Đông được thực thi nghiêm túc bởi sự yếu kém của Nhật Bản và sự bất lực hoặc thực dụng của người Mỹ thì chắc chắn tạo thuận lợi và dung dưỡng tính hung hăng cho Trung Quốc để tuyên bố khu vực thứ 2, thứ 3…khi Trung Quốc muốn. Do vậy thì việc Mỹ bị Trung Quốc truất quyền chỉ là thời gian ngắn.
Thứ hai, Nhật Bản sẽ là lá cờ đầu của khu vực chống sự bành trướng, bá quyền của Trung Quốc được các nước trong khu vực kỳ vọng và tin tưởng.
Nếu khả năng thứ hai thành hiện thực thì đây sẽ là một thất bại vô cùng lớn của Trung Quốc trong cuộc chiến địa chính trị với Nhật Bản và Mỹ. Điều đó có nghĩa là, tuyên bố ECSADIZ của Trung Quốc là một sai lầm lớn mang tầm chiến lược chứ không phải là sai lầm chiến thuật.
Từ 3 sai lầm này Nhật Bản đang chuẩn bị ra đòn thứ 2 sắp tới.....

Thứ Tư, 20 tháng 11, 2013

SỰ NGUY HIỂM KHI ĐỂ NHẬT BẢN ĐỐI PHÓ MỘT MÌNH QUÁ LÂU VỚI TRUNG QUỐC


Trung Quốc- Nhật Bản là 2 cường quốc hùng mạnh nhất nhì khu vực chứ không phải 2 sắc tộc, bộ lạc nào để Mỹ hay tổ chức nào trên thế giới có thể dùng áp lực ngăn cản, kiểm soát khi cuộc chiến giữa họ xảy ra. Lúc đó, thì Mỹ chỉ có một lựa chọn duy nhất là trực tiếp vào cuộc chứ không còn cách nào khác.
Tại khu vực Châu Á-TBD, tranh chấp chủ quyền trên biển giữa Trung Quốc với một loạt quốc gia đã tạo ra những điểm nóng tiềm ẩn khả năng xung đột quân sự cao, khó kiểm soát.
Mỹ, một mặt tỏ ra trung lập để giữ mối quan hệ hợp tác kinh tế với Trung Quốc, mặt khác lại triển khai một loạt các hoạt động quân sự để bao vây, kiềm chế Trung Quốc.
Chính cách hành xử 2 mặt của Mỹ đã khiến Trung Quốc khai thác triệt để, họ cậy mạnh, hành động ngày càng quyết liệt, quyết đoán và hung hăng trong tranh chấp chủ quyền với các quốc gia khu vực Châu Á-TBD.
Trên biển Hoa Đông, tranh chấp giữa Nhật Bản và Trung Quốc về quần đảo Sekaku mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư trên biển Hoa Đông căng thẳng đã leo thang đến nấc thang cuối cùng kề bên miệng hố chiến tranh.
Còn nhớ trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, lúc đầu Mỹ không tham gia vì muốn “ngư ông đắc lợi”. Nhưng khi bị cú như trời giáng Trân Châu cảng, lúc đó Mỹ mới buộc phải nhảy vào vòng chiến tranh. Vậy thì liệu cuộc chiến Trung-Nhật có xảy ra hay không? Và khi đó Mỹ có sự lựa chọn nào khác? Hậu họa khôn lường ở đây là gì?
Nước cờ tuyệt hay của Nhật Bản.
Nhật Bản tuyên bố nếu UAV của Trung Quốc xâm phạm không phận Senkaku là bị bắn hạ tức khắc. Trung Quốc tuyên bố, nếu bắn hạ UAV của Trung Quốc là hành động chiến tranh, Trung Quốc sẵn sàng đáp trả.
Như vậy có nghĩa là nếu như Nhật Bản bắn hạ UAV của Trung Quốc thì chiến tranh giữa 2 nước sẽ nổ ra.
Nên nhớ đây là tuyên bố của cấp chính phủ, cấp nhà nước của cả hai bên chứ không phải tuyên bố của những kẻ quá khích nào, cho nên, đây không phải là tuyên bố chơi theo kiểu “hỏa lực mồm”…mà lời tuyên bố được bảo đảm chắc chắn sẽ thực thi nghiêm túc bằng hành động.
Vấn đề là sau 2 tuyên bố này, UAV của Trung Quốc có bay vào nơi mà Nhật Bản gọi là không phận của họ hay không mà thôi.
Có thể nói Nhật Bản đã “chuyền bóng” vào chân Trung Quốc, buộc Trung Quốc xử lý, lựa chọn cực kỳ khó khăn một điều tối quan trọng một mất một còn tầm quốc gia.
Nếu Trung Quốc cho UAV bay vào đó có nghĩa là Trung Quốc chấp nhận một cuộc chiến với Nhật Bản mà Mỹ dứt khoát phải buộc vào cuộc. Mỹ có thể không can thiệp vào Senkaku nhưng rất tiếc cuộc chiến Trung-Nhật lại không chỉ dừng ở đó. Tiến hành một cuộc chiến tay đôi với Nhật Bản đã khó thắng, thế thì có cả Mỹ tham gia liệu Trung Quốc có thắng không, hay là “lời nguyền Nhật Bản” không thể phá giải?
Nhưng nếu không muốn chiến tranh với Nhật Bản lúc này thì có nghĩa là đừng cho UAV bay vào đó, không phận của Senkaku và điều này cũng có nghĩa là Nhật Bản đã bảo vệ được chủ quyền của mình.
Chắc chắn hiện giờ, Trung Quốc chưa muốn chiến tranh với Nhật Bản có Mỹ tham gia trực tiếp, do đó, Trung Quốc sẽ không dám cho UAV bay đến Senkaku để thử xem Nhật Bản có dám bắn hạ hay không.
Để tăng độ rắn cho tuyên bố bắn hạ UAV, Nhật Bản tiến hành một động thái rất hung hăng, dùng máy bay, khu trục hạm, xông thẳng vào cuộc diễn tập “Cơ động-5” của Trung Quốc khiến Trung Quốc tức lộn ruột và buộc phải thay đổi kế hoạch diễn tập.
Đây chẳng phải là nước cờ tuyệt hay đó sao. Nhật Bản vừa dùng áp lực để buộc Trung Quốc phải bỏ ngay trò dùng UAV phục vụ mục đích tranh chấp chủ quyền, vừa gửi đến Mỹ một thông điệp ngắn “Anh hoặc là đi cùng thuyền với tôi hoặc tôi tự do đi một mình”.
Lựa chọn khó khăn của Mỹ.
Trước tình hình đó, Mỹ đã tỏ ra hốt hoảng lo lắng đến “lợi ích quốc gia” sẽ bị thiệt hại. Rõ ràng là Mỹ đã nhận thức được là không thể áp đặt lối chơi thực dụng của mình. Chủ tịch Ủy ban Quân sự Hạ viện Mỹ Mike Howe cho rằng, Mỹ không nên để một mình Nhật Bản đối phó với Trung Quốc bởi nếu điều này diễn ra sẽ hậu họa khôn lường.
Mỹ sợ rằng nếu để Nhật Bản một mình thì bị Trung Quốc “ăn tươi nuốt sống ư? Không phải, Mỹ hiểu Trung Quốc có gì, Trung Quốc chưa đủ bản lĩnh và khả năng làm điều đó. Vấn đề là Mỹ đã nhận thấy thời gian “một mình” với Trung Quốc của Nhật Bản không dài nhưng đủ để Nhật Bản “trưởng thành”. Trong khi Mỹ lại không muốn Nhật Bản quá mạnh, sức mạnh vượt ra khỏi tầm quản lý của Mỹ, lúc đó, chưa nói việc Nhật Bản sẽ tranh ngôi vị với Mỹ mà Nhật Bản sẽ tự mình làm mọi thứ cần thiết để chơi rắn với Trung Quốc, làm đảo lộn các mối quan hệ trong khu vực gây thiệt hại lớn cho lợi ích của Mỹ.
Một thực tế là Trung Quốc càng hung hăng bao nhiêu thì Nhật Bản càng trỗi dậy, càng cố “phá tan xiềng xích” để trở thành cường quốc quân sự, chính trị bấy nhiêu. Điều lo ngại cho Trung Quốc và kể cả Mỹ là để trở thành một cường quốc như thế, Nhật Bản chỉ vướng bởi cơ chế (xiềng xích) nhưng không thành vấn đề về mặt kỹ thuật.
Trung Quốc, Mỹ và thời thế xô đẩy…Nhật Bản sẽ đi theo con đường riêng của mình, sẽ là quốc gia tiên phong chống sự bành trướng của Trung Quốc theo cách của mình mà không cần Mỹ.
Để Nhật Bản một mình đối phó với Trung Quốc quá lâu thì Mỹ phải hối hận.
Đó là sự nguy hiểm cho Mỹ khi Hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật Bản sẽ không có lý do gì mà tồn tại, bị người Nhật vứt vào sọt rác làm ảnh hưởng đến sự tồn tại quân sự của Mỹ ở Châu Á-TBD mà cả an ninh nước Mỹ. Chưa hết, điều gì sẽ xảy ra nếu như Nhật Bản và Nga bắt tay nhau chẳng hạn…Lúc đó, Mỹ sẽ mất quyền độc tôn ở khu vực Châu Á-TBD và phải chăng cái gọi là hậu họa khôn lường như ngài Chủ tịch Ủy ban Quân sự Hạ viện Mỹ Mike Howe cảnh báo là vậy.
Chắc chắn trong tương lai gần Mỹ sẽ không đánh đổi mối quan hệ với Nhật Bản để có mối quan hệ bền chặt hơn với Trung Quốc. Mỹ không thế vừa muốn ăn con vịt quay vừa muốn ăn trứng nó đẻ ra hàng ngày.

Thứ Năm, 31 tháng 10, 2013

CAM RANH VÀ SUBIC – SỰ KHÁC BIỆT 2 THƯƠNG HIỆU.


Cam Ranh và Subic hiện tại không còn là căn cứ quân sự của nước ngoài nào nhưng trước sự trỗi dậy của Trung Quốc kéo theo tình hình tranh chấp căng thẳng trên Biển Đông, một lần nữa, Cam Ram Ranh, Subic lại được sự quan tâm lớn của giới quân sự, ngoại giao và của các bên liên quan.
Subic-thương hiệu Philippin.
Tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippin xảy ra quyết liệt khi bãi cạn Scarborough bị Trung Quốc dùng tàu cá có hộ tống của tàu Hải giám chiếm đoạt và bãi Cỏ May (một trong 9 đảo trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà Philippin đang làm chủ) đang bị Trung Quốc lăm le chiếm nốt khi tuyên bố chủ quyền ngang ngược.
Thực tế thì đã có vài lần Philippin đàm phán “song phương” với Trung Quốc nhưng ở vào thời điểm thế lực của Hải quân quá yếu trong khi tham vọng của Trung Quốc quá lớn, không thể kiềm chế, thì đàm phán trong vị thế đó làm sao thành công cho Philipines.
Rốt cuộc, khi Philippin đã thấm hiểu được “ý chí” của Trung Quốc thì cái giá phải trả là mất bãi cạn Scarborough. Và, cho đến giờ, phải chăng giữa Trung Quốc và Philippin thì “không còn gì để nói với nhau”, “các biện pháp ngoại giao đã cạn” trong tranh chấp chủ quyền trên biển?
Philippin kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế vì vi phạm UNCLOS với cái gọi là “đường lưỡi bò”; Philipines tăng cường sức mạnh với tốc độ nhanh cho lực lượng Hải quân, không quân; Philippin làm mới nóng liên minh quân sự với Mỹ; Philippin là nước ở châu Á-TBD duy nhất công khai bày tỏ ủng hộ Nhật Bản tái vũ trang…là sự đáp trả rất quyết liệt, nhưng với Trung Quốc, nếu chỉ vậy thôi thì đây là chuyện nhỏ. Philippin sử dụng căn cứ Subic như thế nào mới là chuyện lớn, đáng quan tâm, lo ngại của Trung Quốc.
Rõ ràng là cả Trung Quốc và Philippin đều biết chính xác là Mỹ không đem quân sang để đánh nhau với Trung Quốc bởi mấy đảo đá, bãi cạn của Philippin tranh chấp vì đó không phải là lợi ích quốc gia của Mỹ. Philippin cũng đã có bài học của Gruzia quá tin vào NATO, Mỹ sẽ đối đầu quân sự với Nga nên có hành động “xỉa răng cho cọp”. Nói chung, ít có một quốc gia nào đi bảo vệ một quốc gia nhỏ bé mà sẵn sàng đụng đầu với một đối thủ ngang ngửa, đặc biệt quốc gia thực dụng như Mỹ thì không có.
Hiện diện quân sự của Mỹ ở Subic không phải cùng trực tiếp với Philippin tranh chấp chủ quyền mà để không chế Biển Đông và eo biển Malacca khi cần, ngăn cản Trung Quốc đang ham muốn và ráo riết thực hiện.
Khi Mỹ hiện diện tại Subic thì cái gọi là “vòng dây xiết quanh cổ Trung Quốc” càng chặt lại là điều Trung Quốc, một siêu cường, không thể chấp nhận.
Trong điều kiện đang tồn tại liên minh quân sự Mỹ-Philippin thì sự hiện diện của Mỹ tại Subic là “danh chính” và chỉ cần Philippin “mời” là “ngôn thuận”.
Có thể nói, đụng độ tranh chấp với Philippin, đã gây ra một mâu thuẫn trong chiến lược Biển Đông của Trung Quốc rất khó giải quyết. Đó là, Trung Quốc phải lựa chọn giữa việc đẩy Mỹ ra khỏi Biển Đông hay lôi thôi với mấy cái đảo đá chìm để “dọn chỗ VIP trên Biển Đông” cho Mỹ…
Và, đó cũng chính là sự khai thác, sử dụng triệt để Subic kiểu Philippin hay Subic-thương hiệu Philippin.
Cam Ranh-thương hiệu Việt Nam.
Philippin và Việt Nam cũng có tranh chấp căng thẳng về chủ quyền biển đảo với Trung Quốc. Cam Ranh của Việt Nam còn có lợi thế hơn Subic nhiều lần…Nhưng Việt Nam và Philippin có cách khai thác sử dụng 2 cảng nổi tiếng đó khác nhau để tạo ra thương hiệu khác nhau.
Thứ nhất là:
Philippin có liên minh quân sự với Mỹ nên không sợ Trung Quốc tấn công. Việt Nam không liên minh quân sự với ai cả nên phải tăng cường cảnh giác, tự lực tự cường, “thắt lưng buộc bụng” để nâng cao năng lực phòng thủ bảo vệ Tổ quốc sẵn sàng giáng trả quân xâm lược, bắt chúng phải trả giá đắt.
Với tinh thần đó, Việt Nam đã, đang chỉ có đủ khả năng, tìm mọi khả năng, tăng cường mọi khả năng, sử dụng, khai thác một cách hợp lý, sáng tạo vị trí Cam Ranh, Trường Sa nhằm một mục đích là bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên Biển Đông được quốc tế công nhận mà không nhằm làm hại hay để đối phó với một quốc gia nào.
Đó cũng là điều giải thích rõ ràng quan điểm nhất quán của Việt Nam là không liên minh quân sự với quốc gia nào để chống nước thứ 3 (lẽ dĩ nhiên điều đó đồng nghĩa với việc sẽ không có chuyện cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự).
Cho nên, Cam Ranh chỉ là căn cứ quân sự liên hợp gồm không quân, hải quân hiện đại của Việt Nam, chỉ phục vụ mục đích quân sự duy nhất cho Việt Nam. Đồng thời, Cam Ranh cũng là nơi cung cấp dịch vụ (hàng hải, hậu cần, kỹ thuật) cho tàu thuyền quân sự hay dân sự của bất cứ quốc gia nào.
Thứ hai là:
Một số người hô hào là hãy cho Mỹ đặt căn cứ quân sự tại Cam Ranh để đối phó với Trung Quốc…
Giả sử như vậy thì khi Trung Quốc tấn công Trường Sa, xâm lấn chủ quyền thì Mỹ trực tiếp đánh Trung Quốc vì Việt Nam? Hoang tưởng.
Với Cam Ranh, giới quân sự thì đánh giá Cam Ranh có một vị trí vô cùng quan trọng và lợi hại trong khu vực. Rằng, ai có Cam Ranh thì khống chế được Biển Đông, ai có Trường Sa cũng khống chế được Biển Đông và cuối cùng thì ai khống chế được Biển Đông là làm chủ toàn khu vực…
Điều lý thú là Việt Nam có cả Cam Ranh và Trường Sa nhưng lại không có ý tưởng khống chế Biển Đông để làm chủ khu vực ngay cả khi nếu có đủ khả năng để phục vụ cho ý tưởng đó. Nhưng đó lại là ý tưởng của Mỹ nếu như Mỹ có Cam Ranh của Việt Nam.
Tại sao Việt Nam có đủ khả năng khai thác sử dụng Cam Ranh để bảo vệ chủ quyền của mình mà phải giao cho người khác sử dụng vì lợi ích quốc gia của họ không trùng hợp với lợi ích quốc gia Việt Nam?
Đó là điều vô lý, dại dột, không thể xảy ra.
Và cuối cùng:
Tính cách dân tộc, nền văn hóa dân tộc và đặc biệt là từ năng lực, ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền…của 2 quốc gia khác nhau.
Kết luận vấn đề là làm sao xây dựng được thương hiệu mạnh? Muốn vậy phải liên kết, hợp tác với ai...thì phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ. Chắc chắn các sếp đã có bài rồi.
ngocthong19.5@gmail.com

Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013

VÁN CỜ BIỂN ĐÔNG CỦA VIỆT NAM



Đương nhiên là vậy, đã qua rồi thời Việt Nam là một quân cờ trên Biển Đông, trên ĐNA. Với vị trí chiến lược quan trọng, với khả năng tự vệ, đương đầu với mọi thách thức an ninh có được, đã đến lúc Việt Nam tự quyết định chiến lược an ninh của mình.
Nói đến Biển Đông thì ai cũng đều có chung một đánh giá từ xưa đến nay là Biển Đông có một vị trí chiến lược vô cùng quan trọng trong khu vực châu Á-TBD. Chính vậy mà làm chủ hoàn toàn Biển Đông hoặc bảo vệ an toàn hàng hải trên Biển Đông không phải chỉ là mong muốn của một quốc gia mà có rất nhiều quốc gia đưa vào trong chiến lược khu vực, toàn cầu của họ.
Đó thực sự là tâm điểm của một cuộc chiến địa chính trị khu vực châu A-TBD mà nguy cơ xung đột, chiến tranh và cơ hội hợp tác, hòa bình phát triển là không đoán định.
Với hơn 3000 km đường bờ biển giáp Biển Đông và hơn 3000 hòn đảo lớn nhỏ trong đó có quần đảo Trường Sa nằm gần như chính giữa Biển Đông, Việt Nam, do đó, có một vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng trên Biển Đông nói riêng và khu vực ĐNA nói chung.
Không khó để giải thích tại sao trước đây, Việt Nam cứ liên miên hết thế lực lớn này đến thế lực lớn khác luôn dòm ngó, xâm lược hoặc coi như một quân cờ trên bàn cờ chiến lược Biển Đông, khu vực ĐNA.
Tại sao ư? Tại vì nghèo, yếu, lại ở vào vị trí đắc địa là nguyên nhân chính gây ra thảm họa cho dân tộc Việt Nam trước đây.
Ngày nay, Việt Nam đã khác, với khả năng tự vệ, đương đầu với mọi thách thức an ninh có được, đã đến lúc Việt Nam tự quyết định vị thế của mình, tham gia vào cuộc cờ khu vực với vị thế khác – người chơi chứ không phải là quân cờ.
1- Nước cờ của Việt Nam từ góc nhìn Trung Quốc
Hoạt động ngoại giao thời bình như hoạt động quân sự thời chiến, nghĩa là đều có tính quyết đinh sống còn với vận mệnh quốc gia.
Trong thời chiến, hoạt động ngoại giao phụ thuộc vào kết quả quân sự. Hiệp định Gioneve năm 1954 được ký kết phải sau khi “Tin đây anh (Phạm Văn Đồng) Điện Biên Phủ hoàn thành”. Hiệp định Pari ký cũng phải sau trận “Điện Biên Phủ trên không”
Trong thời bình, kết quả đối ngoại phụ thuộc lớn vào vị thế đất nước, đặc biệt là tiềm lực quốc phòng. Không có khả năng, tiềm lực quân sự để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bắt kẻ xâm lược phải trả giá đắt nếu liều lĩnh xâm phạm, nghĩa là không đủ sức răn đe thì hoạt động ngoại giao chỉ “chót lưỡi đầu môi”.
Hiện tại ở khu vực châu Á-TBD đã có nhiều liên minh quân sự như Mỹ-Nhật Bản, Mỹ-Hàn Quốc, Mỹ-Philipines và nhiều tam giác chiến lược như Mỹ-Nhật Bản-Hàn Quốc, Mỹ-Nhật Bản-Ấn Độ, Mỹ-Nhật Bản-Úc…có vẻ như là để đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Tuy những mối quan hệ đó có thể làm cho Trung Quốc lo ngại, nhưng không đủ để làm họ hốt hoảng.
Trong chiến lược đẩy lùi Mỹ, Nhật Bản ra khỏi chuỗi đảo thứ nhất và đầy tham vọng biến Biển Đông thành “ao nhà” của mình, đương nhiên, Trung Quốc sẽ vấp phải sự chống trả quyết liệt của bên liên quan.
Trên khu vực ĐNA cũng xuất hiện nhiều mối quan hệ cấp đối tác chiến lược như Việt Nam-Indonesia, Việt Nam-Nhật Bản…đặc biệt có đối tác chiến lược sâu, toàn diện như Việt Nam-Nga chẳng hạn, thì đâu là mối quan hệ khiến Trung Quốc lo sợ nhất và ảnh hưởng lớn nhất đến chiến lược biến Biển Đông thành “ao nhà” của họ?
Phải chăng khi Mỹ và Việt Nam trở thành đối tác chiến lược, Mỹ bỏ cấm vận vũ khí sát thương với Việt Nam, mối quan hệ tăng lên từ chiều sâu đến chiều rộng thì khiến Trung Quốc lo sợ?
Không phải. Mỹ có lợi ích quốc gia toàn cầu, dù có đối đầu với Trung Quốc, muốn bao vây, kiềm chế Trung Quốc…nhưng vẫn hợp tác với Trung Quốc. Vì thế khi cần, Mỹ vẫn sẵn sàng lấy mối quan hệ với Việt Nam ra mặc cả với bất kỳ quốc gia nào, kể cả Trung Quốc để tính toán thiệt hơn, nhiều ít.
Vậy, liên minh phòng thủ giữa Việt Nam với Philipines và ASEAN?
Nếu xảy ra thì đây cũng là điều đáng lo sợ cho Trung Quốc, bởi lẽ các quốc gia ĐNA trong khối ASEAN này có một địa quân sự rất quan trọng trên Biển Đông và eo biển Malacca. Khi họ liên thủ với nhau thì Biển Đông sẽ trở thành như một cái “hồ nước” mà một chứ mười hạm đội Nam Hải cũng chẳng làm gì được khi vùng vẫy trong đó bị “đồng loạt trên bờ ném đá”.
Rất may là tình huống này không có thể xảy ra. Cuộc chiến địa chính trị giữa Trung Quốc, Mỹ đã khiến cho ASEAN buộc phải lựa chọn, nghiêng ngả theo lợi ích quốc gia mà họ theo đuổi và Trung Quốc cũng không mấy khó khăn đang làm mọi cách để không xảy ra.
Vậy mối quan hệ giữa Việt Nam và Liên bang Nga chăng?
Cũng không phải. Thực tế mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Nga là mối quan hệ được coi trọng ưu tiên hàng đầu hiện nay. Đây là mối quan hệ truyền thống, hữu nghị, đặc biệt tin cậy lẫn nhau và không một xung đột lợi ích nào dù là nhỏ.
Nga đã không ngừng tăng cường năng lực quốc phòng cho Việt Nam để đủ sức đương đầu với thế lực bành trướng, tạo ra sức răn đe mạnh (đương nhiên là mua bán, nhưng nếu không có độ tin cậy thì không phải có tiền là mua được thứ mình muốn và ngược lại), qua đó Nga kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc, đồng thời củng cố một điểm đứng chân ổn định vững chắc, tin cậy tại châu Á-TBD cho tương lai gần, vừa bảo vệ lợi ích kinh tế của Nga trên Biển Đông.
Tuy nhiên giữa Nga và Trung Quốc cũng là đối tác chiến lược của nhau có tính chất vừa hợp tác vừa kiềm chế cho nên Nga không thể vì Việt Nam tất cả để hy sinh lợi ích quốc gia khi hợp tác với Trung Quốc.
Vậy rốt cuộc, với khả năng quốc phòng và sức mạnh trên Biển Đông hiện tại, Việt Nam tăng cường mối quan hệ với quốc gia nào thì sẽ khiến Trung Quốc lo sợ và không muốn?
Nếu như thế thì nước cờ đó hay mối quan hệ này phải có tác động mạnh đến cấu trúc địa chính trị khu vực và ít nhất có một mục tiêu chung là ngăn chặn Trung Quốc biến Biển Đông thành “ao nhà”. Đặc biệt, mối quan hệ đó phải có độ tin cậy, tức là không có xung đột về lợi ích. Mối quan hệ đó sẽ…
Đó chính là nước cờ hay sách lược đối ngoại có tính logic mà Việt Nam đã, đang và sẽ dùng để tăng cường thế, lực cho đất nước đủ sức bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của mình trước những thách thức nguy hiểm có thể xảy ra.
2- Việt Nam-Nhật Bản, không để lịch sử lặp lại.
Trong tình thế hiện tại về chủ quyền, rõ ràng là Trung Quốc đang xâm hại đến chủ quyền Việt Nam.
Trung Quốc đã thành lập và xây dựng cái gọi là “thành phố Tam Sa” bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam; Trung Quốc ngang ngược, cậy mạnh, gọi thầu quốc tế 9 lô dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam, ra lệnh cấm đánh bắt cá trên vùng EEZ của Việt Nam.
Hạm đội Nam Hải của hải quân Trung Quốc luôn phô trương thanh thế, ráo riết diễn tập đánh chiếm đảo này đảo khác trên Biển Đông…(còn những tuyên bố ngạo mạn, láo xược, của giới học giả quá khích, tướng tá diều hâu, hiếu chiến về Việt Nam được bật đèn xanh thì chúng ta không đáng quan tâm).
Trong tình thế đó, Việt Nam phải làm gì, chẳng lẽ khoanh tay ngồi nhìn khi từng hòn đảo, vùng biển thiêng liêng bị Trung Quốc xâm lấn?
Việt Nam muốn hòa bình nhưng hòa bình không lệ thuộc, Việt Nam kiên quyết bảo bệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên vùng biển Việt Nam được quốc tế công nhận theo UNCLOS.
Do đó, không còn cách nào khác là phải tăng cường tiềm lực quân sự và đối ngoại quân sự để tạo ra thế và lực vững chắc cho đất nước.
Đài “Tiếng nói nước Nga” có bình một câu hay nhưng chưa chính xác, rằng, “Con hổ Việt Nam có móng vuốt Nhật Bản” mà lẽ ra thì “móng vuốt của Nga” mới đúng. Nhưng thật ra, móng vuốt của Hổ chưa quan trọng, quan trọng là thế võ của hổ vồ như thế nào. Tuy nhiên, hổ vồ như nào không phải là điều quyết định, quyết định là nội lực của Hổ. Giống hổ thật đấy, nhưng đói đi không vững thì vồ được ai.
Chúng ta hãy trở lại với luận bàn từ thanh kiếm. Đó là, kiếm dài hay ngắn không quan trọng, quan trọng là kiếm pháp. Tuy nhiên, kiếm pháp tốt hay dở chưa quyết định, quyết định là thanh kiếm gì.
Nếu thanh kiếm đó là một “thanh kiếm báu” như, làm bằng công nghệ nào, chất liệu ra sao để có thể chém sắt như chém bùn…và một thanh kiếm thường, chỉ gặp một cành cây đã quằn, gặp kiếm địch thì bị chém đứt là hoàn toàn khác nhau khi đối đầu.
Chính xác là Việt Nam cần và phải có “thanh kiếm báu” và Trung Quốc quá biết nó sẽ có từ đâu.
Kể từ năm 1945 đến năm 2010, Nhật Bản có 65 năm hòa bình, xây dựng đất nước thành một siêu cường kinh tế, có một nền công nghiệp hiện đại, kỹ thuật công nghệ cao nhất nhì thế giới.
Trong 65 đó Nhật Bản chỉ tồn tại 2 mâu thuẫn với bên ngoài có thể coi như thách thức đến an ninh là CHDCND Triều Tiên và Nga trên quần đảo phía Bắc. Tuy thế 2 mâu thuẫn đó không đủ để biến lực lượng Phòng vệ Nhật Bản “thay tên đổi dạng”, chưa đủ để đánh thức dân tộc Nhật đang “say giấc ngủ hòa bình”. Lưu ý là, nếu như ai đó cho rằng trong 65 năm đó, Nhật Bản không chuẩn bị gì cho tiềm lực quốc phòng là nhầm. Đó không phải là tư duy của một quốc gia có nền công nghiệp hiện đại và quốc gia đang tồn tại đền thờ chiến tranh thế giới lần 2 thì càng không.
Chỉ đến năm 2010, đặc biệt là trong tranh chấp quần đảo Senkaku thì yếu tố Trung Quốc là đủ năng lượng để đepo khởi động bộ máy quân sự, quốc phòng và đánh thức chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản.
Một loạt các sức cản, ràng buộc như Hiến pháp hòa bình Nhật Bản, tâm lý quen hưởng hòa bình vào ô hạt nhân Mỹ, dựa dẫm vào Mỹ trở nên không là gì trước cú tác động của Trung Quốc.
Chiến tranh thế giới lần 2 đã kết thúc 68 năm, trong khi châu Âu đã vĩnh viễn lật sang trang mới những mối oán hận giữa các kẻ thù cũ nhưng vùng ĐBA thì không.
Mối hận thù dân tộc “nỗi nhục 100 năm” của Trung Quốc với Nhật Bản vẫn còn đó và càng lớn dần theo đà trỗi dậy của Trung Quốc, bất chấp Nhật Bản đã từng tạo điều kiện thuận lợi, quan trọng cho sự trỗi dậy thần kỳ của mình.
Tranh chấp quyết liệt Senkaku/Điếu Ngư trên biển Hoa Đông đã làm mối quan hệ Trung-Nhật xấu đi đến mức chiến tranh có nguy cơ xảy ra.
Trên Biển Đông. Nếu Trung Quốc biến thành “ao nhà”, khống chế luôn eo biển Malacca thì coi như nền kinh tế Nhật Bản sống hay chết hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn Trung Quốc. Đòn “cắt nguồn cung đất hiếm” Nhật Bản chắc đã nhận đủ từ Trung Quốc và để bắt Nhật Bản thành chư hầu, Trung Quốc có thừa lòng căm hờn và sự quyết tâm để phong tỏa tuyến hàng hải Biển Đông khi cần thiết.
Nếu Việt Nam thất thế, như mất Trường Sa chẳng hạn, lúc đó tuyến hàng hải thương mại, vận chuyển năng lượng bị mất an toàn thì Nhật Bản sẽ rơi vào tình thế nguy hiểm.
Như vậy, có thể nói việc Trung Quốc biến Biển Đông thành “ao nhà” có ảnh hưởng “không thể chấp nhận được” đến 2 quốc gia là Việt Nam và Nhật Bản, cho nên, theo logic thì ngăn chặn âm mưu, hành động của Trung Quốc trên Biển Đông, Việt Nam và Nhật Bản đều có cùng mục tiêu mang tính “tối thượng” là an ninh quốc gia và chủ quyền.
Hiện tại Nhật Bản có một nền công nghiệp hiện đại nhất châu Á. Mặc dù GDP sau Trung Quốc nhưng chất lượng GDP cao hơn rất nhiều Trung Quốc. Cục diện địa chính trị trong vài năm tới Nhật Bản sẽ là có vai trò chính trên châu Á-TBD trong khi hiện tại “lòng tin chiến lược” Trung-Nhật đã cạn.
Cho nên, đối tác chiến lược với Nhật Bản là đối tác chiến lược với một cường quốc lớn và không có gì thuận lợi hơn là Việt Nam và Nhật Bản cũng như Việt Nam và Nga là đối tác chiến lược của nhau mà không có xung đột lợi ích, vì thế có độ tin cậy, có lòng tin, hoàn toàn khác bản chất với đối tác chiến lược nào đó mà vừa hợp tác vừa kiềm chế nhau.
Đối tác chiến lược Việt Nam-Nhật Bản chắc chắn một điều là dù có hay không có căng thẳng trên Biển Đông thì Việt Nam và Nhật Bản cũng cần phải tăng cường mối quan hệ vì sự phát triển của 2 quốc gia đầy duyên nợ này.
Không phải ngẫu nhiên mà Nhật Bản là nước tư bản lớn đầu tiên có quan hệ ngoại giao với Việt Nam dân chủ cộng hòa. Không phải ngẫu nhiên mà mà nhà yêu nước Phan Bội Châu tìm đường sang Nhật Bản đã được khắc họa trong bộ phim “Người cộng sự” mà Đài truyền hình Việt Nam phát sóng nhân dịp 40 năm quan hệ ngoại giao Việt-Nhật.
Người Việt và đặc biệt là người Nhật không nên để lịch sử lặp lại vì đó là lịch sử đầy đau thương và hối tiếc của 2 dân tộc.
“Lòng tin chiến lược” giữa các quốc gia, dân tộc với nhau là tiền đề của hòa bình và phát triển.

Thứ Ba, 15 tháng 10, 2013

NÊN NHỚ RẰNG, HÃY CÒN NỢ NGƯỜI MỘT LỜI XIN LỖI!


Những ngày này, cả nước Việt Nam chìm trong nỗi tiếc thương vô hạn trước sự ra đi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Qua tình cảm của người dân dành cho Đại tướng mới thấy một điều rằng nhân dân công tâm lắm.
Nhân dân biết hết, ai tốt, ai xấu , ai bị trù dập, ai tham nhũng, ai kèn cựa ngậm máu phun người…dân biết hết và quân đội càng biết rõ hơn.
Tất cả những tình cảm dành cho Đại tướng mà có thể nói là người dân đã dồn nén trong nhiều năm nay, nay mới có dịp bung ra. Và như vậy mới thấy rằng, những ai vì dân thì sẽ thuộc về nhân dân.
Lịch sử công bằng lắm.
Phải mất 22 năm sau khi Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc, Lê Thánh Tông mới giải oan cho ông. Đã mấy trăm thế kỷ rồi mà mỗi lần đọc lời giải oan “Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo” vẫn khiến lòng chua xót, con tim như nhói đau, mắt như nhòa lệ.
Điếu văn của BCHTW Đảng CS Việt Nam đã đánh giá đúng công lao, đánh giá đúng nhân cách của Đại tướng cũng khiễn đồng bào cả nước nghẹn ngào, nhòa lệ, nhưng hình như chưa đủ.
Bởi vì nếu đã như vậy thì thực tế hoạt động chính trị của Đại tướng tại sao lại không hợp logic một tẹo nào, đúng không?
Bởi vì, nếu đã như vậy thì tại sao lại thiếu một lời xin lỗi, đúng không?
Quân đội nhân dân Việt Nam không có lỗi với người “Anh cả” của mình, Nhân dân Việt Nam chỉ mang ơn ông mà cũng không có lỗi với vị Đại tướng của mình. Bởi lẽ, giá như, quân đội, nhân dân Việt Nam, có quyền được lựa chọn Đại tướng cho mình, “Anh cả” cho mình.
Vậy ai là người có lỗi với Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì hãy xin lỗi Người trước khi quá muộn. Đừng để thế hệ sau này phải minh oan cho ông thì…không còn gì để nói.

Thứ Tư, 9 tháng 10, 2013

GÓC NHÌN CỦA LÍNH: 2 ĐIỀU VỀ TƯỚNG GIÁP.


Điều thứ nhất: Tướng Giáp luôn luôn đúng.
Lịch sử đất nước trong 31 năm chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc đã ghi nhận và chứng minh.
- Tấn công Đông Khê thay vì Cao Bằng.
- Thay đổi cách đánh ở chiến dịch Điện Biên Phủ. Đánh chắc tiến chắc, chứ không dùng chiến thuật “biển người”.
- Mậu thân 1968 thắng lợi lớn nếu như sau tấn công đợt 1 thì rút quân ra khỏi thành thị về nông thôn tổ chức phòng thủ.
- Chiến dịch Quảng Trị năm 1972. Nếu nghe tướng Giáp thì không bao giờ quân ta rơi vào phòng ngự bị động gây ra tổn thất lớn. Đã thế còn có tư tưởng sai lầm về tiến công cách mạng, cứ cho rằng cách mạng là tiến công chứ không phòng ngự… Và khi tướng Giáp kiên quyết ra lệnh rút lui khỏi thành cổ Quảng Trị mới dừng lại con số “81 ngày đêm”.
- Mưu kế tuyệt vời. Kéo căng, gìm địch 2 đầu để điểm huyệt Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên.
- Buộc tướng Lê Trọng Tấn, một vị tướng đánh trận giỏi nhất Việt Nam, người được mệnh danh là “Ducốp Việt Nam” phải đánh giải phóng Đà Nẵng trong 3 ngày. Chúng ta không thể tưởng tượng nổi nếu như hơn 10 vạn quân Ngụy ở Đà Nẵng chỉ cần ta chậm 1 ngày là ùn ùn kéo vào quanh Sài Gòn tử thủ thì sẽ như thế nào?
- Chỉ thị trực tiếp cho Mai Năng, Lữ trưởng 126 và quân khu 5 bằng mọi cách phải giải phóng Trường Sa.
- Tấn công giải phóng Căm Pu Chia khỏi bọn diệt chủng. Nếu nghe theo Tướng Giáp cắt đứt biên giới Thái Lan-Campuchia rồi tấn công diệt gọn thay vì đánh vỗ mặt để chúng chạy hết sang Thái Lan khiến chúng ta phải dây dưa với chúng tới 10 năm mà không dứt điểm gọn được, hao người tốn của.
Chính vì thế toàn quân, toàn dân trước sau như một đều đặt trọn lòng tin vào người chỉ huy tài giỏi của mình, yêu quý, kính trọng ông là thế.
Điều thứ hai: Nếu ai đó còn thăn văn chuyện này chuyện kia thì hãy coi điều thứ nhất.
Vẫn biết trong suốt 31 năm chiến tranh Đại tướng Võ Nguyên Giáp là Tổng tư lệnh, nhưng trong chống Pháp, Bác Hồ trao cho tướng Giáp “tướng quân tại ngoại quyết trước báo sau”. Còn trong chống Mỹ thì không phải tướng Giáp quyết được. Ông phải thông qua Bộ CT, có khi chỉ một phiếu và không ít kẻ muốn thể hiện mình là tài giỏi, kèn cựa, đố kỵ, với tướng Giáp. Có lẽ tướng Giáp không buồn vì điều này nhưng nhìn máu xương người lính của mình đổ ra vì sai lầm chiến thuật, chiến lược mới khiến ông đau đớn rất nhiều.
Là một người lính của Đại tướng chỉ trong 2 năm thôi từ năm 1977 nhưng tôi không khỏi bàng hoàng khi hay tin Người đã đi theo Bác Hồ.
Non sông Việt Nam, dân tộc Việt Nam biết chờ đợi đến bao giờ nếu như lời nói của Giáo sư đáng kính Trần Đại Nghĩa là đúng: “Trên lĩnh vực quân sự và quân chính, phải vài thế kỷ nữa mới xuất hiện một Võ Nguyên Giáp thứ hai”.

Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2013

ĐIỀU GÌ XẢY RA KHI CAM RANH VÀ SUBIC "KẾT NỐI"?

GÓC NHÌN CỦA LÍNH: CAM RANH-SUBIC SẼ LÀ "EO BIỂN"
Tất nhiên, trong thời điểm hiện nay, đây chỉ là ý tưởng thuộc tính “khoa học viễn tưởng”, nhưng…chắc chắn là không điên rồ chút nào.
Khoảng cách Cam ranh-Subic tương đương từ đảo Hải Nam đến quần đảo Trường Sa chừng 1500 km. Nếu Cam Ranh và Subic “kết nối” thì, với vũ khí công nghệ cao như hiện nay, với vị trí đắc địa của Cam Ranh và Subic thì thứ nhất, không có một phương tiện nổi nào của Trung Quốc qua đây mà lọt khỏi tầm mắt của nó và thứ hai là các phương tiện nổi đó nằm trong tầm hỏa lực của nhiều loại vũ khí, đặc biệt là không quân.
Trung Quốc, trước mắt đang ngại với eo biển Malacca vì khả năng chưa thể khống chế được nên còn nhẹ tay, nhẹ miệng với Indonesia, Malaisia và Singapo, nhưng những viên tướng hiếu chiến lại rất coi thường Việt Nam và Philipines, bất chấp lợi hại, luôn mồm đe dọa “dạy cho bài học”…bất cứ lúc nào. Rất may với Trung Quốc, đó chỉ là những “viên tướng học giả”.
Thế giới mới chỉ biết đến eo biển Malacca do thiên nhiên tạo ra giữa Malaisia, Indonesia và Singapo, nhưng khi Cam Ranh và Subic “kết nối” thì cũng tạo nên một “eo biển” lợi hại không kém. Khi đó, tấn công đánh chiếm quần đảo Trường Sa là phi thực tế với hạm đội Nam Hải của PLAN. Trung Quốc đã lường trước được điều này hay không thì không biết, nhưng nếu có thì điều đó chẳng phải là điên rồ. Đến tấn công, đánh chiếm Trường Sa, trước hết Trung Quốc phải vượt qua được “eo biển” này.
ngocthong19.5@gmail.com
KẾT NỐI NGHĨA LÀ THẾ NÀO? YẾU TỐ KHÁCH QUAN NÀO BẢO ĐẢM CHO SỰ KẾT NỐI ĐÓ HOÀN HẢO? CỤC DIỆN ĐỊA CHÍNH TRỊ LÚC ĐÓ SẼ RA SAO?...GÓC NHÌN CỦA LÍNH SẼ "THÁY GÌ NÓI VẬY" TRONG DỊP KHÁC.

Thứ Năm, 5 tháng 9, 2013

BẢO VỆ TRƯỜNG SA TỪ "TẦM NHÌN XA" CỦA MỸ



Đối với Việt Nam, lực lượng Hải quân phải bảo vệ chủ quyền lãnh hải và quyền chủ quyền trong khu vực đặc quyền kinh tế, thềm lục địa rộng 200 hải lý, lúc này, không phải là quá sức, đó chỉ là nhiệm vụ của một lực lượng Hải quân ven bờ.
Nhưng, bao gồm cả quần đảo Trường Sa, quần đảo cách xa đất liền từ 400 đến 600 km là một thách thức không nhỏ, đòi hỏi chỉ ý chí, quyết tâm thôi chưa đủ mà còn phải trí tuệ.
Hải quân ven bờ (khả năng tác chiến chỉ ven bờ) xây dựng và phát triển trở thành Hải quân đại dương (khả năng tác chiến bất cứ đâu trên đại dương) không phải ngày một ngày hai mà phải trải qua nhiều thập kỷ, với khoa học công nghệ thôi chưa đủ mà phải có kinh nghiệm và truyền thống…
Trung Quốc, một quốc gia đang trỗi dậy với những tham vọng lớn về đại dương cũng đang vật lộn với vô vàn khó khăn để trở thành Hải quân đại dương. Điều đó có nghĩa không phải bất cứ đâu trên đại dương, Hải quân Trung Quốc muốn là được, không gian địa lý ngăn cản họ. Một tướng hải quân Mỹ từng nói rằng, “ngoài căn cứ 500 km, hải quân Trung Quốc không biết làm gì”, không phải là không có lý.
Có thể nhiều người sẽ bất ngờ khi biết Trung Quốc có hàng ngàn máy bay chiến đấu đủ các thế hệ trong lực lượng không quân. Lực lượng này dù chất lượng thế nào thì vẫn là một sự răn đe lớn cho những quốc gia nào dám tác chiến trong vùng trời lục địa Trung Quốc.
Tuy nhiên, đây có phải là điều quan tâm lớn cho Đài Loan hay Trường Sa hay không? Đương nhiên là không, bởi, không phải máy bay nào trong số đó cũng tác chiến được trên vùng trời Đài Loan hay Trường Sa hay đưa nó lên được tàu sân bay (nếu có). Tăng tầm bay bằng một cuộc cách mạng về động cơ, nhiên liệu của máy bay thì không thể, bởi vậy, đóng tàu sân bay và tiếp dầu trên không là biện pháp kỹ thuật tối ưu của không quân Trung Quốc hiện nay nếu như muốn tác chiến tầm xa.
Lợi dụng địa lợi, khai thác triệt để tính năng kỹ thuật của vũ khí để chiếm ưu thế tác chiến.
Làm chủ vùng biển, trước hết là làm chủ vùng trời trên vùng biển đó của lực lượng không quân hải quân, đó là chân lý của các cuộc xung đột hay chiến tranh trên biển hiện đại.
Có thể nói, đang có một cuộc chạy đua với thời gian, âm thầm, quyết liệt, đầy trí não của Việt Nam và Trung Quốc để sẵn sàng làm chủ vùng trời khu vực quần đảo Trường Sa.
Nếu như Trung Quốc đang tăng cường nguồn lực để đóng tàu sân bay, chế tạo máy bay tiêm kích hạm, máy bay tiếp dầu trên không…để khắc phục bất lợi về địa lý thì Việt Nam, với thuận lợi về khoảng cách địa lý, Việt Nam tất nhiên đi theo hướng khác.
Thứ nhất, đó là khai thác triệt để tính năng kỹ thuật hiện có của máy bay, tăng cường số lượng, điều chỉnh phù hợp giữa tính đa nhiệm và chuyên sâu…nhằm để chiếm ưu thế tác chiến tuyệt đối trên vùng trời Trường Sa nếu xung đột xảy ra.
Chẳng cần phải giấu diếm, với tính năng kỹ thuật hiện có, ngay cả SU-27 của trung đoàn 940 vẫn thừa khả năng tác chiến ở Trường Sa thì không phải nghi ngờ gì về khả năng của SU-30MK2. Như vậy, kỹ thuật (công nghệ) của vũ khí hiện có thì khoảng cách địa lý của không quân hải quân Việt Nam không thành vấn đề. Vấn đề còn lại là số lượng và chiến thuật như thế nào để bảo đảm tác chiến chắc thắng.
Việc tăng cường thêm 12 chiếc SU-30MK2 có nằm trong tính toán đó của Việt Nam hay không thì chỉ có Bộ tham mưu Hải quân biết rõ, nhưng dư luân phần nào thấy được ý chí quyết tâm cao độ nhưng đầy trí não để bảo vệ Trường Sa của Việt Nam.
Nguyên với 36 chiếc máy bay Su-30MK2 hiện đại không kém gì không quân Trung Quốc không cần tiếp dầu vẫn thừa thời gian vần vũ trên vùng trời Trường Sa, chưa tính các loại SU khác…chắc chắn khiến đối phương phải suy nghĩ cẩn trọng. Và, không biết trong số máy bay đó có bao nhiêu chiếc chuyên về không đối hạm, chuyên không đối không, chuyên về áp chế điện tử…thì suy nghĩ phải “2 lần”.
Thứ hai là khai thác triệt để địa lợi để chiếm ưu thế về chiến thuật.
Lộ hướng tấn công là một điều không thể chấp nhận trong binh pháp. Lộ hướng tấn công sẽ gây cho ta 2 tình huống cực kỳ nguy hiểm. Một là đối phương chủ động bố trí lực lượng, sử dụng lực lượng có lợi chiếm ưu thế để đối kháng. Hai là bị đối phương ngăn chặn bằng phục kích, tập kích và bố trí những hệ thống vật cản (mìn, thủy lôi…)
Lâu nay, không ít các vị tướng hiếu chiến, các học giả quá khích của Trung Quốc luôn đe dọa nào là “dạy cho Việt Nam một bài học”, nào là “muốn thì cứ đánh chiếm” (Trường Sa)…và nếu như là thật, lúc đó, tấn công Trường Sa thì hướng tấn công của lực lượng không quân Trung Quốc luôn bị lộ vì hướng đó là hướng bắt buộc. (Chúng ta chưa đề cập đến hướng trên biển)
Lộ hướng tấn công là sự bất lợi lớn về chiến thuật. Nếu như trong chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” do hướng tấn công của B-52 Mỹ là bắt buộc nên đã lộ rõ tử huyệt là “điểm chuyển hướng” thì giờ đây, Trung đoàn radar 290 trên đỉnh Sơn Trà-Đà Nẵng, không cần phải vạch nhiễu tìm thù cũng dễ dàng dẫn đường cho không quân Việt Nam xuất kích đến đúng lúc, đúng tử huyệt (là “điểm tiếp dầu trên không” chẳng hạn) trên hướng tấn công của không quân Trung Quốc (nên hiểu đây là lối đánh du kích của không quân với hình thức phục kích), hoặc vân vân.
Làm được điều này có nghĩa là Việt Nam hạn chế được số lượng máy bay Trung Quốc tham gia tác chiến và hạn chế được thời gian tác chiến của những máy bay này trên khu vực không phận Trường Sa

Trạm Radar trên đỉnh Sơn Trà, chứng tích của người Mỹ đã dùng để khống chế và theo dõi toàn bộ khu vực rộng lớn từ đảo Guam (Mỹ) phủ qua đảo Hải Nam (Trung Quốc), nhưng với Việt Nam, cùng với vị trí Cam Ranh, chỉ cần quản lý khu vực Trường Sa đã là quá đủ.
Như vậy, với lực lượng tàu mặt nước, tàu ngầm của Việt Nam luôn kém ưu thế và khả năng tác chiến tầm xa nhiều lần so với Trung Quốc khi tác chiến tại khu vực Trường Sa thì trước mắt, sự hỗ trợ của không quân là rất lớn. Sự hỗ trợ này tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng tàu mặt nước, tàu ngầm có nhiều phương án tác chiến khả thi để bảo vệ vững chắc Trường Sa.
Hơn lúc nào hết, huyện đảo Trường Sa, huyện đảo tiền tiêu của Tổ quốc đã và đang hiên ngang với một niềm tin tất thắng. Cả dân tộc, cả đất nước, đang tất cả cho Trường Sa, vì Trường Sa.
ngocthong19.5@gmail.com

Thứ Hai, 26 tháng 8, 2013

SỚM MUỘN GÌ TRUNG QUỐC CŨNG PHẢI KÝ COC!


Đương nhiên, Bắc Kinh chẳng mấy vui vẻ, thậm chí tờ Nhân dân nhật báo hôm 16/8 đã khẳng định dù Trung Quốc có đồng ý COC, hòa bình chưa chắc đã có ở Biển Đông nếu không theo luật chơi của TQ…
Thực ra đây chỉ là biểu hiện một thái độ cay cú, hậm hực của một tờ báo hay thậm chí của giới quá khích, trước một chiến lược lớn đầy tham vọng của mình không thành công mà không phải là cái tầm, tư cách, của một quốc gia trong xã hội hiện đại. Chẳng ai, chẳng quốc gia nào ép Trung Quốc ký hay không ký COC mà chính căn cứ từ yếu tố chủ quan, khách quan tình hình khu vực, Trung Quốc biết phải làm gì để “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Khi đã ký COC là phải thực hiện, còn thực hiện nghiêm túc hay không thực hiện là quyền của Trung Quốc, nhưng nếu thế, ký mà không thèm thực hiện, hệ lụy, hậu quả của thái độ, hành động đó sẽ khôn lường.
Dù sao, sớm muộn gì Trung Quốc cũng sẽ đồng ý COC mà các nước ASEAN đưa ra bởi có 2 nguyên nhân cơ bản buộc Trung Quốc phải thay đổi phương pháp thực hiện chiến lược.
Tình thế Biển Đông đã thay đổi.
Với Biển Đông (hay biển Nam Trung Hoa hay Biển Đông Nam Á), nếu như có đủ khả năng thì Trung Quốc có thừa ngạo mạn để vẽ cái gọi là “Bản đồ đường lưỡi bò” đến tận eo biển Malacca.
Eo biển Malacca và Biển Đông có thể nói là con đường “sinh mạng” của không những Trung Quốc mà còn là của Nhật Bản. Mỹ cũng tuyên bố có “lợi ích quốc gia” ở đây. Do vậy, bảo vệ an ninh hàng hải, an toàn cho hàng hải trên Biển Đông và eo biển Malacca là mong muốn không của riêng ai. Tuy nhiên, bất cứ quốc gia nào, tùy theo khả năng đều cũng muốn khống chế tuyến hàng hải này khi cần thiết. Đây chính là “cái núng đồng tiền của nữ thần chiến tranh” hay là mầm móng đầy quyến rũ nhưng vô cùng nguy hiểm.
Trong khi đó, các quốc gia trong khu vực ĐNA, Biển Đông với họ vừa là chủ quyền bao đời nay sinh sống tồn tại, vừa có quyền chủ quyền theo UNCLOS…
Như vậy có thể nói, Biển Đông không phải của riêng ai, cho nên, ý tưởng chiếm trọn một mình là sẽ gặp vô vàn khó khăn, sẽ bị nhiều quốc gia trong khu vực và thế giới chống lại. Tách Mỹ, Nhật Bản, Nga…ra khỏi Biển Đông, cũng như tách Trung Quốc ra khỏi eo biển Hormuz vì không liên quan là không hợp logic trong thời buổi toàn cầu hóa.
Chiếm trọn Biển Đông bằng cách vẽ trên bản đồ thì chẳng có ý nghĩa gì, chỉ khi nào Trung Quốc áp đặt được luật của Trung Quốc trên Biển Đông mà bất cứ quốc gia nào cũng phải tuân thủ, mới coi như chiếm trọn được Biển Đông. Nhưng, muốn như vậy thì phải bằng sức mạnh, mà trong tình hình hiện nay, đối đầu với một ASEAN đoàn kết đã là khó khăn, không thể ngày một ngày hai làm chủ được tình hình, trong khi nền kinh tế lại quá nhạy cảm với 29/39 tuyến đường của Trung Quốc trên Biển Đông, huống chi gồm cả Mỹ, Nhật Bản sẽ can thiệp thì Trung Quốc chưa thể. Sẽ là duy ý chí nếu Trung Quốc quyết tâm thực hiện bằng được chiến lược này.
Cục diện địa chính trị ĐNA đã thay đổi.
Ở đây, Myanmar là điểm nóng mà chúng ta cần quan tâm nhất trong chiến lược của Trung Quốc.
Trong thời kỳ bị cấm vận, Myanmar đã trở thành cái sân sau hoàn toàn của Trung Quốc như thuộc địa. Với vị trí địa lý, tài nguyên năng lượng, Myanmar có một địa chiến lược cực kỳ quan trọng với Trung Quốc mà biểu hiện rõ nhất là 2 đường ống dẫn dầu và khí đốt được khởi công từ năm 2004. Nó gồm 2 đường song song, một cho dẫn dầu từ Trung Đông với công suất 22 triệu tấn và một cho dẫn khí đốt sản xuất tại chỗ với công suất 12 tỷ m3. Cả 2 đường ống dẫn này có chiều dài 739 km, bắt đầu từ các mỏ khí tự nhiên ở bang Rakhine chạy qua Vân Nam và Quảng Tây là điểm cuối cùng.

Tương lai u ám của đường ống chiến lược của Trung Quốc xây dựng tại Myanmar gây khó khăn cho chiến lược biến Biển Đông thành “ao nhà”.

Ngày 28/7/2013 dòng khí tự nhiên bắt đầu vận chuyển qua đường ống nhưng thấp hơn nhiều so với dự kiến. Do bạo lực leo thang dọc theo đường ranh giới giữa bang Shan và Kachin nơi có đường ống chạy qua Vân Nam đến Quảng Tây có khả năng bị trì hoãn thay vì hoàn thành vào tháng 9/2013, trong khi dầu chưa thể vận chuyển cho tới tháng 6/2014 (New York 7/8).
Việc xây dựng đường ống dẫn năng lượng trên đất liền Trung Quốc-Myanmar giúp cho Trung Quốc an toàn hơn thay cho tuyến vận chuyển đường biển qua eo biển Malacca và Biển Đông khi chiến sự nổ ra.
Hơn ai hết Trung Quốc đã biết rõ ngón đòn này khi đã cho Nhật Bản nếm sự lợi hại bằng cách cắt nguồn cung đất hiếm.
Đa dạng hóa nguồn cung năng lượng…phòng tình huống xấu nhất xảy ra cho kinh tế, an ninh quốc gia là sách lược không chỉ của Trung Quốc áp dụng. Chính vì thế mà 2 đường ống Trung Quốc-Myanmar có tầm chiến lược rất quan trọng với Trung Quốc, đến mức khiến người ta cho rằng, hơn 20 năm qua, Trung Quốc đã thực dân hóa dần dần khu vực mà có 2 đường ống này đi qua.
Nhưng, do chủ quan, đánh giá thấp trào lưu dân tộc chủ nghĩa trong ban lãnh đạo quân sự ở Myanmar mà Trung Quốc đã nhận được những bài học đầu tiên về hành động thực dân hóa của mình. Đó là tiến trình dân chủ hóa ở Myanmar.
Từ khi Myanmar tiến hành chuyển đổi chính trị, lực lượng đối lập đã phát triển mạnh mẽ. Sự phản đối mạnh mẽ với dự án đập thủy điện Myitsone buộc Myanmar dừng dự án “theo ý nguyện của người dân” khiến Trung Quốc nổi giận. Lo ngại với 2 đường ống chiến lược của mình là có cơ sở khi những nhà hoạt động xã hội lưu vong có mối quan hệ với Đảng phát triển dân tộc vùng Rakhine nơi đường ống dẫn dầu khí bắt đầu đã ra thông báo chỉ trích dự án vào ngày dòng khí được bơm vào đường ống đầu tiên, ngày 28/7.
Đảng này cho rằng, khu vực này không nhận được lợi ích gì từ đường ống này.
Đây là miếng đất màu mỡ cho Mỹ “gieo giống” dân chủ để có thể khiến cho ít nhất đường ống phải “đàm phán lại”.
Khó khăn, mất an toàn cho 2 đường ống chiến lược của Trung Quốc chưa dừng ở đó. Trước năm 2010, do muốn bảo đảm an ninh cho đường ống, Trung Quốc đã hậu thuẫn cho các tổ chức chống nhà nước Myanmar như Kachin, Shan, Wa. Hiện nay, Myanmar đang quyết tâm củng cố quyền kiểm soát với các nhóm thiểu số này để khẳng định chủ quyền của mình ở khu vực. Myanmar đã dùng đường ống dẫn dầu, khí này để làm đòn bẩy nhằm hạn chế sự can thiệp của Trung Quốc (đã có lúc xung đột xảy ra khiến Trung Quốc phải điều quân đến biên giới). Lúc này, Trung Quốc dù theo bên nào thì hậu quả đường ống chiến lược của mình cũng đều bị lãnh đủ.
Đài tiếng nói nước Nga có một câu bình luận khá hay về đường ống Trung Quốc-Myanmar: “Trung Quốc vòng tránh bãi đá ngầm Mỹ ở eo biển Malacca” nhưng chưa đủ. Phải là “tránh vỏ dưa thì gặp vỏ dừa” mới đủ.
Đường ống chiến lược quan trọng của Trung Quốc chạy qua một môi trường an ninh bất ổn không theo luật lệ nào, khó dự đoán, khiến Trung Quốc sẽ vào thế bị động đối phó. Trong khi đó, hoạt động thương mại, vận chuyển năng lượng trên tuyến đường hàng hải qua eo biển Malacca và Biển Đông của Trung Quốc chưa quốc gia nào cản trở, phong tỏa nếu như Trung Quốc không buộc họ phải làm thế.
Myanmar, ván cá cược chiến lược lớn của Trung Quốc đã cho kết quả. Liệu Trung Quốc có đủ tự tin, bản lĩnh để cá cược “con đường sinh mạng” của mình?

Chủ Nhật, 18 tháng 8, 2013

THỔ NHĨ KỲ - BÀI HỌC CHO TRUNG QUÓC?


Thổ Nhĩ Kỳ có đường bờ biển với Địa Trung Hải dài cũng xấp xỉ như của Trung Quốc với Biển Đông.
Vào thế kỷ XVI, Thổ Nhĩ Kỳ của thời Đế chế Ốttôman hùng mạnh họ tuyên bố chủ quyền toàn bộ Địa Trung Hải cho đến eo biển Gibraltar. Theo đó, các nước quanh Địa Trung Hải như Croatia, Italia, Pháp, Tây Ban Nha, Maroc, Angieri, Tuynidi…chỉ cần “bước chân xuống biển” là phải được phép của Hải quân Thổ.
Tuyên bố của Trung Quốc theo kiểu Thổ.
Ngày nay, trong thế kỷ XXI Trung Quốc trỗi dậy, họ tuyên bố chủ quyền gần trọn Biển Đông đến sát eo biển Malacca như bản đồ “đường lưỡi bò” họ đã công bố . Tại sao Trung Quốc lại ngang ngược bất chấp đến vậy?
Thứ nhất vì địa chiến lược Biển Đông.
Về địa kinh tế, Biển Đông chứa một nguồn năng lượng, tài nguyên khổng lồ chưa khai thác đảm bảo cho tương lai phát triển lâu dài của nền kinh tế Trung Quốc
Về địa quân sự, chiếm được Biển Đông, Trung Quốc khống chế toàn bộ tuyến đường hàng hải từ TBD qua ÂĐD trong đó có eo biển Malacca. Toàn bộ lực lượng Hải quân của Philipines, Việt Nam, Malaisia, Indonesia…trở thành lực lượng “thủy quân”, ra biển là phải được phép Trung Quốc. Biển Đông là nơi dể cho tàu ngầm Trung Quốc hoạt động mà không bị Mỹ, Nhật Bản theo dõi chặt chẽ, đẩy hoạt động của Hải quân Mỹ ra xa khu vực.
Về địa chính trị, đây là một đòn giáng chí mạng vào Mỹ (nếu như chiếm trọn Biển Đông), đẩy Mỹ ra khỏi khu vực ĐNA, vai trò của Mỹ được thay thế bằng Trung Quốc, các quốc gia trong khu vực sẽ đi theo quỹ đạo của Trung Quốc, chiến lược châu Á-TBD của Mỹ sẽ thất bại và ý tưởng “chia nửa Thái Bình Dương với Mỹ sẽ thành hiện thực. Khi đó Đài Loan như quả đã chín mùi tự rụng vào bị Đại lục, còn Nhật Bản sẽ như thế nào khi các tuyến đường hàng hải trên Biển Đông bị Trung Quốc phong tỏa, khống chế? Nga sẽ như thế nào nếu như các hợp tác khai thác dầu khí với Việt Nam bị Trung Quốc coi như bất hợp pháp vì trong chủ quyền của họ? và Mỹ, liệu có nhường một khu vực có địa chiến lược cực kỳ quan trọng như vậy cho Trung Quốc?
Thứ hai là Trung Quốc có tư tưởng cậy mạnh.
Khi yếu thì dù ham muốn mấy, Trung Quốc phải “giấu mình chờ thời” thôi, nhưng khi mạnh lên thì Trung Quốc bất chấp dù Biển Đông là của hơn 300 triệu cư dân của nhiều quốc gia nhỏ quanh đó làm ăn sinh sống lâu đời, dù Trung Quốc đã ký vào UNCLOS…vẫn đòi chiếm trọn.
Cậy mạnh là bản chất của bá quyền, bành trướng. Biểu hiện của cậy mạnh là hung hăng, ngang ngược bất chấp, hay đe dọa sử dụng vũ lực.
Từ năm 2010 trỏ lại đây, khi Trung Quốc cho rằng mình đã mạnh thì họ đã đang gây hấn với hầu hết các quốc gia trên Biển Đông với tuyên bố biến Biển Đông thành “ao nhà” hết sức ngang ngược, thách thức tất cả theo kiểu hoặc nó là của Trung Quốc hoặc là phải đánh nhau với Trung Quốc. Trên biển Hoa Đông Trung Quốc đang đe dọa Nhật Bản, đẩy tranh chấp quần đảo Senkaku mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư lên cao có lúc thế giới phải thót tim.
Những điều Trung Quốc chưa lường hết
Không gian địa chính trị khu vực châu Á-TBD thay đổi nhanh chóng gây bất lợi cho Trung Quốc.
Điều khiến các quốc gia khu vực cảnh giác, lo ngại là sự trỗi dậy của Trung Quốc kéo theo hàng năm chi phí cho quốc phòng tăng nhịp độ 2 con số.
Sự tăng ngân sách quốc phòng của Trung Quốc vượt ra ngoài phạm vi phòng thủ cùng với những hành động, tuyên bố chủ quyền hung hăng, bất chấp khiến cho các quốc gia có tranh chấp với Trung Quốc buộc cũng phải tăng chi phí quân sự để bảo vệ chủ quyền của mình.
Việc tăng cường lực lượng dồn dập của Philipines, việc chuẩn bị lực lượng có trọng tâm, trọng điểm của Việt Nam, Indonesia…để sẵn sàng bảo vệ chủ quyền, đặc biệt là Nhật Bản, Trung Quốc đã tạo ra một kẻ thù hùng mạnh mà không thể khống chế, đánh bại được nó…khiến cho Trung Quốc phải lo lắng, suy nghĩ cẩn trọng.
Năm 2012, Mỹ đã đánh giá lại địa chính trị thế giới bằng “chiến lược châu Á-TBD”. Và, trong bối cảnh đó, khu vực châu Á-TBD, trừ Trung Quốc, phản đối chiến lược của Mỹ, khi bổng dưng dồn 60% lực lượng Hải quân vào khu vực đang nóng lên vì tranh chấp chủ quyền này mới đáng ngạc nhiên.
Một cuộc chiến địa chính trị tại châu Á-TBD đã diễn ra giữa Mỹ và Trung Quốc và không khó để nhận thấy “ván cờ” địa chính trị này Trung Quốc đã bị Mỹ “chiếu rút”. Mỹ rút chiếu, Trung Quốc mất Myanmar, Mỹ rút chiếu, Philipines trước “cửa nhà” Trung Quốc đầy quân và tàu chiến Mỹ và chưa biết chừng, Mỹ rút chiếu thì Bắc Triều Tiên không còn là vùng đệm của Trung Quốc nữa…
Ngay một tướng võ biền của Mỹ cũng nhận ra, rằng “Trung Quốc đã đẩy bạn bè, láng giềng của mình vể phía Mỹ” thì tại sao những nhà chính trị đầy mưu lược Trung Quốc không nhận ra? Tại sao Trung Quốc không nhận ra rằng với địa chiến lược Biển Đông như trên thì “đa phương hóa Biển Đông” là điều tất yếu sẽ xảy ra, ít nhất Nhật Bản và Mỹ sẽ không ngồi nhìn dù cho các quốc gia có tranh chấp với Trung Quốc buông xuôi?
Thời nào cũng tồn tại “cá lớn nuốt cá bé”, cậy mạnh, nhưng Trung Quốc đã mạnh chưa mà đã cậy vào mạnh hòng chia nửa TBD?
Trong 5 nước là UV thường trực HĐBA thì có nước nào đang phải đi mua vũ khí như Trung Quốc? Không có, họ chỉ bán. Nhật Bản tuy không là UVTTHĐBA nhưng cũng không thèm mua vũ khí của ai (họ chỉ buộc và hợp tác sản xuất với Mỹ) và chỉ cần cho họ xuất khẩu vũ khí thì chỉ có Nga, Mỹ may ra mới cạnh tranh nổi.
Trung Quốc cậy giàu có, tự hào là một trung tâm kinh tế, có GDP thứ 2 thế giới vượt Nhật Bản ư? Ông Hứu Nhất Lực, bình luận viên hàng đầu của kênh chứng khoán, CCTV có một đánh giá thú vị: “Nền kinh tế thế giới chưa thoát khỏi sự ràng buộc vào đồng USD thì Trung Quốc vẫn tiếp tục ở vị thế… ”người làm thuê của Mỹ”. Trung Quốc dùng vàng bạc thật để tạo ra sản phẩm, mang đi xuất khẩu và đổi lại những “tờ giấy lộn” (USD) được in ấn tinh xảo của Mỹ…”. Vậy, một “người làm thuê nhiều tiền (USD)” liệu có truất quyền “ông chủ” được không?
Đến lúc này có lẽ Trung Quốc đã kiểm chứng được rất nhiều vấn đề và đã bớt “cao giọng”.
Cục diện địa chính trị châu Á-TBD
Xu hướng xung đột.
Nhìn tổng thể đó là sự đối đầu giữa Trung Quốc với Mỹ và đồng minh ở châu Á-TBD, trong đó 3 điểm nóng dễ dẫn đến xung đột tranh chấp giữa Trung Quốc với Nhật Bản, Philipines và Việt Nam.
Bất cứ một cuộc xung đột quy mô nào, Trung Quốc, một quốc gia đang trỗi dậy, đang đấu tranh thoát khỏi sự bao vây, kiềm chế của Mỹ đều khiến Trung Quốc bị tổn thương, yếu hơn trước Mỹ và các đối thủ khác. Bất kỳ kết quả diễn tiến ra sao thì Mỹ vẫn thắng và Mỹ thì luôn được lợi.
Xu hướng hợp tác hòa bình.
Tuy có nhiều nhân tố xung đột nhưng các nhân tố hợp tác phát triển đan xen nhau. Nếu sự tranh chấp của Trung Quốc với các nước được giải quyết hòa bình trên cơ sở UNCLOS thì khu vực châu Á-TBD - trọng tâm địa chính trị toàn cầu sẽ hòa bình, ổn định, phồn vinh và ngược lại sẽ là khiến cho thế giới chiến tranh, rối ren nghèo đói…Đương nhiên hòa bình, trong bất kỳ tình huống nào cũng là ý tưởng hay và tốt đẹp.
Trở lại với tuyên bố của Thổ Nhĩ Kỳ đòi chủ quyền toàn bộ Địa Trung Hải trong thế kỷ XVI. Không cam chịu phải xin phép Hải quân Thổ khi “đặt chân xuống biển”, họ liên minh với nhau, giáng cho Hạm đội của Thổ ngạo mạn một thất bại đau đớn tại Lepante vào năm 1570.
Lịch sử không lặp lại, nhưng chân lý “Biển Trời không phải của riêng ai” thì không bao giờ thay đổi.
ngocthong19.5@gmail.com

Thứ Ba, 13 tháng 8, 2013

PHÊ CHUẨN VÀ KHÔNG PHÊ CHUẨN UNCLOS, MỸ VÀ TRUNG QUỐC AI NGANG NGƯỢC, BẤT CHẤP?


Trong nội bộ Trung Quốc, một số nhà phân tích chính trị, đặc biệt là nhóm học giả tướng tá trong quân đội đặt câu hỏi tại sao Trung Quốc lại phê chuẩn UNCLOS? Và đang công kích chính phủ nước này suy nghĩ về vấn đề có nên tồn tại hay không cái gọi là “công ước kiềm chế lợi ích”?.
Nếu như các bậc lãnh đạo tiền bối của Trung Quốc mà có thể ‘đội mồ” lên được thì chắc chắn các nhà phân tích chính trị, các học giả, tướng tá trên (gọi chung là nhóm diều hâu) sẽ được “ban cho thuốc độc” vì cái tội đã ngu dốt, vô mưu, không biết thế, thời…lại còn hỗn láo, “phạm thượng khi quân”.
Tại sao Trung Quốc phê chuẩn UNCLOS?
Chỉ có Việt Nam, bán đảo Triều Tiên và những người yêu nước chân chính của dân tộc Trung Hoa mới thấm thía nỗi đau của sự chia cắt đất nước.
Với Trung Quốc, Đài Loan là vấn đề nổi cộm và khi đã lớn mạnh, là cường quốc thì nỗi đau đó càng nhức nhối. Thu hồi Đài Loan không phải là không có trong ý tưởng và hành động của giới lãnh đạo Bắc Kinh từ khi lập nước.
Tuy nhiên trong 3 lần (thế giới gọi là 3 lần khủng hoảng eo biển Đài Loan) hành động của Trung Quốc bị Hải quân Mỹ, với sức mạnh vượt trội, răn đe, can thiệp đều phải xuống thang, từ bỏ ý định.
Ngày 23/8/1958 Trung Quốc đột ngột nã pháo vào đảo Kim Môn tạo ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài loan lần thứ 2. Tổng thống Eisenhower đã ra lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo tiền tiêu Kim Môn và Mã Tổ. Đồng thời, Hoa kỳ đã bí mật cung cấp cho Đài Loan 100 máy bay chiến đấu F86 Sabre trang bị tên lửa AIM-9 Sidewinder không đối không hiện đại nhằm đối đầu với các chiến đấu cơ Mig 15, Mig 17.
Trước tình hình cuộc chiến có thể leo thang gây bất lợi cho Đại Lục, ngày 4/9/1958, Bắc Kinh ra tuyên bố chính thức về hải phận của họ là 12 hải lý, trước hết là nhằm khẳng định chủ quyền trên biển của Trung Quốc trong tình thế bị đe dọa tại eo biển Đài Loan, đồng thời, quan trọng hơn là khiến Hải quân Mỹ phải do dự khi vào khu vực bờ biển mà Trung Quốc đã tuyên bố lãnh hải.
Cuộc khủng hoảng lần thứ 3 từ 7/1995 đến 11/3/1996. Trung Quốc tiến hành tập trận quanh đảo Đài Loan và phóng tên lửa bay qua hòn đảo này. Lập tức Mỹ điều 2 nhóm tàu sân bay chiến đấu đi vào eo biển Đài Loan khiến Trung Quốc lùi bước, xuống thang để “tránh xung đột với Mỹ” và cũng trong năm đó, năm 1996, Trung Quốc phê chuẩn UNCLOS.
Giới lãnh đạo Trung Quốc thời đó thừa biết tại sao Mỹ không phê chuẩn UNCLOS và rất muốn cũng như Mỹ bởi tư tưởng bành trướng, cậy mạnh vồn có của mình.
Nhưng, có thể nói việc tuyên bố lãnh hải 12 hải lý và tiếp theo là phê chuẩn UNCLOS năm 1996 của Trung Quốc diến ra trong một tình thế khi khả năng của Trung Quốc không thể bằng quân sự, ngăn cản được sự tự tung tự tác của Hải quân Mỹ trên eo biển Đài Loan, khi vùng biển của Trung Quốc có nguy cơ mất an toàn nếu không phê chuẩn UNCLOS như Mỹ.
UNCLOS với Trung Quốc lúc đó như một chiếc phao cho người chưa biết bơi mà không có nó thì ai cũng hiểu sẽ ra sao.
Việc Trung Quốc phê chuẩn UNCLOS, dùng nó làm vũ khí đấu tranh, hạn chế được sự “tự do hàng hải” của Mỹ hoặc ít nhất làm cho Mỹ do dự, tính toán khi muốn “tự do hàng hải” kiểu Mỹ trong vùng biển thuộc điều chỉnh của UNCLOS mà Trung Quốc đã phê chuẩn.
Chẳng hạn, ngày 08/03/2009, cách đảo Hải Nam 75 hải lý về phía Nam, 5 tàu Trung Quốc bao vây một tàu do thám không vũ trang của hải quân Mỹ, tiến tới cách tàu này 8 mét, cản đường tàu này và tìm cách phá hoại những thiết bị thuỷ âm mà tàu này đang kéo trên biển.
Mỹ cáo buộc Trung Quốc vi phạm luật biển quốc tế. Trung Quốc cáo buộc ngược lại là chính Mỹ mới vi phạm luật quốc tế và UNCLOS trong vùng đặc quyền kinh tế của họ…Điều đó cho thấy UNCLOS vẫn đang có giá với Trung Quốc, ít nhất là cho đến năm 2009.
Vậy mà, nhóm diều hâu, được nuôi lớn, tồn tại nhờ vào sách lược “nín nhịn chờ thời” và chiếc phao UNCLOS, mới cảm thấy có một chút “cơ bắp”, nhưng chưa làm được trò trống gì cho dù là tạo ra một cuộc “khủng hoảng” đã dám phê phán các bậc lãnh đạo tiền bối khi phê chuẩn UNCLOS thì đúng là không biết thế thời, “khi quân phạm thượng”.
UNCLOS “kiềm chế lợi ích” của Trung Quốc?
Giá như UNCLOS đã “kiềm chế lợi ích” của Trung Quốc dù chỉ “một chút do dự” thôi, thì đó là điều may mắn cho các quốc gia khu vực ĐNA có chung biển với Trung Quốc.
UNCLOS với Trung Quốc không những nó đáp ứng được tình thế của Trung Quốc khi “chưa biết bơi” mà hiện tại, Trung Quốc dựa vào UNCLOS theo “kiểu Trung Quốc” để tạo ra lợi ích phi lý, phi pháp của mình: Bản đồ đường lưỡi bò phi lý, phi pháp.
Rõ ràng, bản đồ “đường lưỡi bò” lấy cách giải thích khoa học dựa theo UNCLOS là phi lý. Nhưng Trung Quốc dựa theo UNCLOS để cải biên theo các giải thích của Trung Quốc hay theo luật của Trung Quốc.
Trung Quốc cho rằng 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc (phi pháp) và do đó chúng có 3 vùng chủ quyền gồm nội thủy, lãnh hải 12 hải lý, vùng EEZ 200 hải lý (phi lý). Theo cách giải thích như vậy thì đó là một vùng biển rộng hơn 80% diện tích Biển Đông mà Trung Quốc đòi chiếm đoạt là vậy và định dạng đường lưỡi bò cũng từ đó mà ra.
Hiện nay, khi Trung Quốc đã trỗi dậy mạnh mẽ, thách thức địa vị thống tri toàn cầu của Mỹ thì không có cái gì, điều gì “kiềm chế lợi ích” của Trung Quốc huống chi là cái thứ giấy UNCLOS. Nếu UNCLOS “kiềm chế” được lợi ích Trung Quốc thì làm gì có chuyện Trung Quốc đánh dấu điểm cực nam của bản đồ “đường lưỡi bò” chỉ cách Malaisia 80 km trong khi cách mình hàng ngàn km?
Philipines kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về Biển Đông ư? Mỹ vẽ đường cho Trung Quốc nên rút khỏi UNCLOS để tránh vụ kiện rắc rối nhưng Trung Quốc có coi UNCLOS có ý nghĩa gì đâu mà kiện.
Rút khỏi UNCLOS là mắc mưu Mỹ, nghĩa là, ý đồ của Trung Quốc trên Biển Đông không còn chỗ nào được che đậy, nghĩa là bất cần, Trung Quốc sẵn sàng thách thức công khai đe dọa tất cả.
Vậy, Trung Quốc đã đủ độ liều lĩnh đấy chưa? Chưa đâu.
Chính vì lẽ đó, con đường Mỹ vẽ ra, Trung Quốc không dại, Trung Quốc có con đường riêng của mình.
Mỹ không phê chuẩn UNCLOS vì có nhiều điều hại đến quyền lợi của Mỹ tuy vẫn có nhiều điều lợi. Hơn nữa, Mỹ không phê chuẩn vì khi đã phê chuẩn thì phải tuân thủ. Chứng tỏ Mỹ rất tôn trọng luật và rất quân tử, hại nhiều hơn lợi thì không ký dù là đương kim cường quốc số1 thế giới, có thể dùng sức mạnh để bẻ luật.
Trung Quốc khác Mỹ, Trung Quốc phê chuẩn UNCLOS nhưng không nhất thiết phải tuân thủ, vì, thấy có điều lợi để khai thác, còn khi có điều hại thì bất chấp, sẵn sàng giẫm dưới chân, coi UNCLOS chỉ là mớ giấy lộn (thực tế hành xử trong thời gian qua trên Biển Đông đã quá rõ). Chứng tỏ Trung Quốc “uyển chuyển” hơn Mỹ và đương nhiên ngang ngược hơn Mỹ trong cách đối xử với luật quốc tế nói chung và UNCLOS nói riêng.
Với Trung Quốc, sức mạnh là luật, đề ra luật và Mỹ cũng vậy thôi. Tuy nhiên luật và sức mạnh là thuộc ý muốn chủ quan của con người, con người làm ra luật và sức mạnh. Nhưng QUY LUẬT là khách quan, ngoài ý muốn của con người. Con người vận dụng phù hợp thì tồn tại, làm trái nó là bị hủy diệt.
Chiến tranh, bành trướng, mộng bá chủ thế giới…của những quốc gia dù hùng mạnh, hung hăng, phát xít đến mấy nhưng bất chấp quy luật là tiêu vong và đã từng tiêu vong từ trước tới nay.