Thứ Ba, 30 tháng 6, 2015

Đã đến lúc Nga-Việt cần tập trận trên Biển Đông.


Sự hợp tác nào của Trung-Mỹ trên Biển Đông mà không có hiện diện của Nga-Việt, chắc chắn sẽ mang lại sự bất lợi cho Nga và Việt Nam.

Thực chất Mỹ tố cáo Trung Quốc, hành động thách thức tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông tạo ra sự căng thẳng với Trung Quốc nhằm 3 mục tiêu quan trọng.
Thứ nhất là triển khai, bố trí lực lượng tại Biển Đông nói riêng và khu vực Tây-TBD.
Thực hiện chiến lược “xoay trục” của Mỹ sang châu Á-TBD, Mỹ tuyên bố đưa 60% lực lượng Hải quân sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tuy nhiên, để đưa 60% lực lượng sang một khu vực mới không phải là chuyện đơn giản, đặc biệt triển khai lực lượng vào Biển Đông-Tây-TBD là đòi hỏi nhiều điều kiện đáp ứng.
Trước hết là vị trí đứng chân (căn cứ): Mỹ đã chính thức trở lại căn cứ Subic
Tiếp theo là sự hỗ trợ của đồng minh, tập hợp lực lượng và tranh thủ sự đồng thuận của khu vực: Liên minh Mỹ-Nhật-Úc đã hình thành với sự hỗ trợ đắc lực của Philipines (cho Mỹ căn cứ và hỗ trợ hậu cần cho Nhật Bản tuần tra Biển Đông). Sự xuất hiện quân sự của Mỹ trên Biển Đông đã gần như “danh chính ngôn thuận”.
Đến đây chúng ta thấy mục tiêu thứ nhất, Mỹ đã đạt được trọn vẹn mà công lớn nhất giúp Mỹ chính là Trung Quốc. Sự hung hăng, tham vọng và hành động bành trướng của Trung Quốc không cần che đậy đã khiến các quốc gia trong khu vực lo lắng, bất an. Đó là mảnh đất tốt cho Mỹ phát triển.
Thứ hai là lôi kéo Việt Nam, biến Việt Nam thành tiền đồn ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc.
Rõ ràng là, Trung Quốc muốn bành trướng ở đâu, kiểu gì, mặc, nhưng đụng vào chủ quyền biển đảo của Việt Nam là bị chống lại một cách kiên quyết, không khoan nhượng. Lịch sử đã dạy cho Việt Nam nhiều bài học và đến đây thì không ai hiểu Mỹ và Trung Quốc bằng Việt Nam.
Trên Biển Đông, Trung Quốc và Mỹ càng căng thẳng, Việt Nam càng độc lập tự chủ, không theo ai chống ai. Việt Nam không theo Trung Quốc chống Mỹ vì tuyên bố của Mỹ, hành động của Mỹ phù hợp với lợi ích của Việt Nam (chứ tuyệt nhiên không phải Mỹ tuyên bố, điều lực lượng sang Biển Đông…là vì Việt Nam). Việt Nam cũng không theo Mỹ để chống Trung Quốc vì Việt Nam đủ tự tin, đủ sức đương đầu bảo vệ lợi ích của mình trên Biển Đông. Điều Việt Nam cần là cùng Trung Quốc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình và là bạn với Mỹ.
Thứ 3 là đẩy Nga ra khỏi Biển Đông.
Đẩy Nga ra khỏi Biển Đông không chỉ là mục tiêu của Mỹ mà ráo riết hơn, nhu cầu bức thiết hơn còn là của Trung Quốc.
Với Trung Quốc, mấu chốt của vấn đề là việc Nga cung cấp vũ khí phòng thủ biển cho Việt Nam càng hiện đại bao nhiêu thì làm cho âm mưu chiến Biển Đông của Trung Quốc gặp phải trở ngại bấy nhiêu. Tại sao Nga lại cung cấp vũ khí cho Việt Nam bảo vệ Biển Đông? Đương nhiên lợi ích Nga không thể ít và ít trọng lượng hơn mối quan hệ chiến lược Nga-Trung Quốc rồi.
Với Mỹ, Nga là kẻ thù thách thức vị trí bá chủ thế giới của Mỹ với một sức mạnh hiện hữu không giống như Trung Quốc. Do đó quân cảng Cam Ranh với sự xuất hiện của Nga khiến Mỹ bất an. Mỹ đã từng thử quan hệ Nga-Việt khi tuyên bố (không chính thức) yêu cầu Việt Nam không cho máy bay chiến lược Nga tiếp dầu ở Cam Ranh. Phải chăng một thông điệp yêu cầu về sự lựa chọn của Việt Nam về Hoa Kỳ và Nga?
Việt Nam, Nga thừa hiểu điều này và lặng lẽ quan sát chuyến đi của vị phó chủ tịch quân ủy Trung Quốc cùng 7 vị tướng Trung Quốc sang Mỹ vừa rồi. Họ ký thỏa thuận bí mật gì không ai biết, nhưng bất kỳ sự hợp tác của họ trên Biển Đông mà không có hiện diện của Nga-Việt, chắc chắn sẽ mang lại sự bất lợi, bất an cho Nga và Việt Nam.
Sách lược tốt nhất cho mối quan hệ Nga-Việt hiện nay là “tựa lưng nhau” để chống kẻ thù trước mặt của mình.
Nga đã từng tuyên bố tập trận với Trung Quốc trên Biển Đông, tập trận với Brunei trên Biển Đông…chuyện bình thường. Nhưng khi đã đến lúc Nga-Việt Nam tuyên bố tập trận trên Biển Đông thì rõ ràng là chuyện không bình thường, bởi vì sự quan tâm của Trung Quốc và Mỹ là rất lớn.

Tình thế cũng đã đến lúc có cuộc tập trận Việt-Nga trên Biển Đông với vị trí xuất phát tấn công là quân cảng Cam Ranh? 

Thứ Tư, 10 tháng 6, 2015

Căn cứ Hải quân ở Trường Sa-không dọa được ai!


B-52 là một pháo đài bay thực sự khủng khiếp mà không dọa được Việt Nam thì cái gọi là “Căn cứ hải quân” mà Trung Quốc đang cố biến từ các đảo chiếm đóng trái phép của Việt Nam, chẳng là gì khiến Việt Nam mất bình tĩnh.
Mỹ tố cáo Trung Quốc bồi lấp những đảo đá, bãi cạn trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam biến chúng thành những căn cứ hải quân để tuyên bố ADIZ…tiến đến khống chế vùng trời, vùng biển Biển Đông, kiểm soát tuyến hàng hải quốc tế và eo biển Malacca.
Vậy, liệu Trung Quốc có biến các thứ đang xây dựng thành căn cứ quân sự tức là căn cứ hải quân (CCHQ) trên quần đảo Trường Sa hay không?
Về hình thức và nội dung thì có thể nhưng về giá trị sử dụng chiến lược lâu dài thì CCHQ ở đó là không thể.
Căn cứ Hải quân là nơi trú đậu, trú ẩn cho tàu thuyền của Hải quân. Là nơi bảo đảm hậu cần, kỹ thuật cho các phương tiện tàu thuyền sẵn sàng tác chiến cho đến cấp chiến dịch. Do đó, yêu cầu là CCHQ phải có cầu tàu bến cảng, có kho chứa nhiên liệu, kho chứa vũ khí đạn dược, có xưởng sửa chữa kỹ thuật…
Về địa thế, CCHQ phải là nơi xuất phát tấn công thuận lợi nhất, đồng thời phải là nơi an toàn nhất cho tàu thuyền khi trú ẩn, neo đậu, tức là khả năng phòng thủ, sống sót cao trước đòn tần công của đối phương.
Như vậy, khả năng phòng thủ, khả năng sống sót trước đòn tấn công của đối phương quyết định sự tồn tại của CCHQ. Một CCHQ giống như để nhiều quả trứng trong một cái giỏ, về nguyên tắc, khi chiến tranh xảy ra, các lực lượng cơ động sẽ phân tán đến những vị trí đợi cơ hoặc vị trí xuất phát tấn công, nhưng lực lượng cố định như kho xăng dầu, đạn dược các cơ sở vật chất bảo đảm, các sân bay bến cảng là không thể. Khi căn cứ bị tiêu diệt, bị phá hủy thì các lực lượng cơ động như chim mất tổ, bị mất chỗ đứng chân nên cực kỳ nguy hiểm khi tham gia tác chiến dài ngày.
Tại quần đảo Trường Sa, với khả năng của mình, Trung Quốc có thể bồi lấp, mở rộng để xây sân bay, bến cảng, xây kho chứa nhiên liệu…nhưng để biến thành một CCHQ thì cho đến nay mới chỉ nghe “tuyên bố” từ các “hỏa lực mồm”.
Quả thật, để xây dựng CCHQ trên quần đảo Trường Sa, Trung Quốc rất muốn, nhưng 2 yếu tố kỹ thuật và chiến thuật đã không cho phép họ muốn là được.
Về kỹ thuật, đừng tưởng có sân bay là đưa J-10, 11 ra là cất cánh hạ cánh làm mưa làm gió trên vùng trời Trường Sa bất kỳ lúc nào, bất kỳ ở đâu. Khu vực quần đảo Trường Sa là biển dữ, thời tiết rất khắc nghiệt là kẻ thù nguy hiểm nhất cho các phương tiện trang bị điện tử tinh vi, hiện đại…Một năm có hàng chục cơn bão, mà khi có bão thì căn cứ phải bỏ không, vì ngay cả tàu chiến cũng phải đến khu neo tránh bão huống chi máy bay như những chiếc lá mỏng manh. Trung Quốc “ví von chúng như những chiếc tàu sân bay cố định 24 giờ/ngày, 365 ngày/năm”…là hoang tưởng.
Việc bồi lấp, mở rộng cũng có giới hạn, không thể muốn rộng bao nhiêu cũng được, cho nên, không gian kỹ thuật, phục vụ cho hoạt động máy bay cực kỳ hạn chế và không gian chiến thuật, phòng thủ cũng không có mà phải dựa vào tàu khu trục bảo vệ…dẫn đến nảy sinh ra nhiều tình huống bất lợi thế khác.
Về chiến thuật, trừ phi Trung Quốc tấn công phủ đầu đè bẹp tất các các lực lượng của đối phương khi chiến tranh bắt đầu, nếu không các căn cứ hay các đảo nhân tạo đó đều bị biến thành biển lửa khi chúng chỉ là những mục tiêu cố định trên biển rất dễ làm mồi ngon cho tên lửa hành trình và diệt hạm từ máy bay và tàu ngầm. Khả năng tự bảo vệ của CCHQ trên quần đảo Trường Sa là bằng “không”.
Đối đầu với Mỹ thì điều này sẽ không xảy ra trong đòn tấn công phủ đầu, do đó Mỹ chẳng coi CCHQ của Trung Quốc trên quần đảo Trường Sa là cái thứ gì hết. Xung đột quân sự với Mỹ, tuổi thọ của những CCHQ đó rất ít, chỉ tính bằng giờ. (Tàu ngầm tên lửa USS Michigan, lớp Ohio trong biên chế Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Hải quân Hoa Kỳ có khả năng phá hủy “căn cứ không quân” Trung Quốc trên đảo nhân tạo Chữ Thập chỉ trong vài phút. Một đợt tấn công với 10 tên lửa hành trình Tomahawk-D sẽ tạo ra “cơn mưa” 1660 quả bom bi trên đảo nhân tạo, phá hủy máy bay, radar, tháp điều khiển, kho chứa nhiên liệu, xe bảo dưỡng và kho đạn dược. USS Michigan mang tổng cộng 154 tên lửa Tomahawk. Vậy nhưng Mỹ lu loa lên để nhằm mục tiêu khác).
Do CCHQ ở khu vực quần đảo Trường Sa có tính chất đặc biệt, đó là căn cứ nhưng cũng chính là vị trí xuất phát tấn công trực tiếp cực kỳ lợi hại, khác với các căn cứ trên bờ, nó rất xa với đất liền, vì thế, các phương tiện, lực lượng phụ thuộc vào căn cứ hầu như tuyệt đối. Vì thế, nếu bị tên lửa Tomahawk hay vũ khí gì khác tấn công vào các kho chứa nhiên liệu, phá đường băng thì J-10 hay J-12 chỉ còn cách xin hạ cánh khẩn cấp ở sân bay Cam Ranh của Việt Nam, nơi có khoảng cách gần nhất, để khỏi tự rơi xuống biển.
Mặt khác những CCHQ đó, hay những đảo nhân tạo này là nằm xen kẽ trong rất nhiều đảo khác trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà Trung Quốc không chiếm đóng được, vì thế, nếu có ý đồ gây xung đột với Việt Nam thì lực lượng đồn trú trên các đảo Trường Sa của Việt Nam cũng sẽ không ngồi nhìn. Chắc chắn, những CCHQ đó cũng chỉ sử dụng được một lần.
Khi Trung Quốc xây dựng bồi lấp ở đảo Gacma, các “hỏa lực mồm” của Trung Quốc không tiếc lời đe dọa, rằng đây là “một tàu sân bay không thể đánh chìm”; rằng, sẽ có hàng “trung đoàn J-10, J-11 ra Gacma trực chiến”, rằng, chỉ các Thành phố Hồ Chí Minh vài trăm km…Rất may cho Trung Quốc là những “hỏa lực mồm” này không được “điều binh khiển tướng”.
Xây dựng, bồi lấp các đảo chiếm được của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa là hành động phi pháp của Trung Quốc xâm hại đến chủ quyền biển đảo của Việt. Kéo pháo binh, tên lửa, máy bay,… ra đó, đe dọa thành lập khu nhận dạng phòng không (ADIZ) là thái độ hung hăng, khiêu khích trên Biển Đông…chứ không dọa được ai. Nó-các CCHQ trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà Trung Quốc đang xây dựng trái phép, rất tiếc không phải là Cam Ranh hay Subic.
Vậy tại sao Mỹ lại phản ứng mạnh và Trung Quốc có quyết tâm biến nó thành những CCHQ hay không?
Đây là “cuộc chơi” của 2 cường quốc trên “sân nhà” Việt Nam và đương nhiên Việt Nam sẽ ủng hộ cho đội chơi đẹp, đúng luật và cảnh giác đối phó với những kẻ “đục nước béo cò”.

Đúng là không ai hiểu Trung Quốc bằng Mỹ và ngược lại, nhưng trừ…Việt Nam

Thứ Tư, 3 tháng 6, 2015

Hai đòn hiểm của Mỹ buộc Trung Quốc “lùi” trên Biển Đông.


Việc Trung Quốc đang biến những bãi cạn trên quần đảo Trường Sa thành những căn cứ quân sự để chiếm Biển Đông khiến Mỹ không thể ngồi yên.
Một loạt hành động, biện pháp của Mỹ nhằm ngăn chặn hành động của Trung Quốc mà chúng ta đã được chứng kiến. Đó là, dùng máy bay, tàu chiến tuần tra để thách thức tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc (như việc đưa máy bay B-52 vào vùng nhận dạng phòng không mà Trung Quốc thiết lập trên vùng biển Hoa Đông); bật đèn xanh cho Nhật Bản được xây dựng quân đội mang tính tấn công và sẵn sàng tác chiến tại Biển Đông khi lợi ích quốc gia của Mỹ, Nhật Bản bị xâm hại; nước Úc cũng chính thức can thiệp quân sự vào Biển Đông cùng với một liên minh tuần tra Biển Đông của Indonesa, Malaysia và Singapo đang sẵn sàng. Điểm nhấn đặc biệt chú ý là Liên minh quân sự mạnh, trụ cột của Mỹ tại châu Á-TBD là Mỹ-Nhật Bản- Úc đã chính thức sẵn sàng can thiệp quân sự trực tiếp vào Biển Đông.
Các biện pháp và hành động của Mỹ và liên minh đối đầu với Trung Quốc do tính chất không thể thỏa hiệp, nên tình hình Biển Đông trở nên căng thẳng và rất dễ xảy ra xung đột. Nếu Trung Quốc cứ tiếp tục bồi lấp các đảo đá, bãi cạn xây dựng các căn cứ quân sự thì sự có mặt lực lượng quân sự của Mỹ-Nhật Bản-Úc sẽ xuất hiện dày đặc hơn, áp lực sẽ giáng xuống Trung Quốc lớn hơn.
Tuy nhiên, khi Mỹ chưa ra hết những quân bài trong tay mình thì còn quá sớm để trả lời câu hỏi liệu xung đột quân sự có xảy ra hay không. Và đây có thể là 2 “biện pháp hòa bình” của Mỹ trên Biển Đông theo kiểu Mỹ của Bộ trưởng QP, ông A. Carter đưa ra tại Shangri-la mới đây.
Bán vũ khí, máy bay săn ngầm cho Việt Nam.
Phải khẳng định rõ là Việt Nam không muốn làm nghiêm trọng thêm tình hình vốn đã căng thẳng trên Biển Đông, muốn giải quyết tranh chấp chủ quyền bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở tuân thủ UNCLOS và luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, Việt Nam phải xây dựng một lực lượng Hải quân mạnh, hiện đại để bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh hải, biển đảo. Việc mua sắm máy bay, tàu ngầm, tên lửa đối hải…là chỉ tự vệ và chỉ hoạt động trong vùng trời, vùng biển Việt Nam, là nhu cầu tất yếu mà không nhằm gây thêm căng thẳng trên Biển Đông.
Việt Nam đã mua sắm vũ khí của Nga, của Tây Âu và giờ mua thêm vũ khí của Mỹ để đa dạng hóa vũ khí, lựa chọn những loại vũ khí tốt, phù hợp, phục vụ yêu cầu chiến thuật phòng thủ là chuyện bình thường. Vì thế, quốc gia nào phản ứng tiêu cực với năng lực, sức mạnh của Hải quân Việt Nam là vô lý, nếu như không có ý đồ xâm hại đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam.
Nếu Mỹ sẵn sàng bán máy bay săn ngầm hiện đại cho Việt Nam hoặc bất kỳ loại vũ khí nào khác mà Việt Nam cần thì Việt Nam cũng sẵn sàng mua.
Quan điểm của Mỹ, ngoài việc thu được tiền ra, Mỹ bán vũ khí cho Việt Nam nhằm mục đích là Việt Nam sẽ ngăn chặn được mưu đồ, hành động bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông và đây cũng chính là quan điểm nhận thức của Trung Quốc.
Tuy nhiên, quan điểm của Việt Nam là quan điểm dựa trên chiến lược phòng thủ, tự vệ mà đối tượng tác chiến là những ai xâm hại đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam.
Chẳng hạn, chống ngầm trong phòng thủ biển của Việt Nam là một nhiệm vụ sống còn, quyết định sự thành bại của hệ thống phòng thủ xa bờ (chống tiếp cận). Do đó, không mua máy bay chống ngầm của Mỹ thì Việt Nam mua của các nước khác loại tốt nhất có thể, ngoài lực lượng hiện có của Nga ra…để đa dạng hóa vũ khí, để tăng cường sức mạnh chống ngầm là không phải bàn cãi. Đương nhiên, khi có thêm P-3C Orion thì tàu ngầm đối phương sẽ “suy nghĩ 2 lần” khi xâm nhập vào vùng biển Việt Nam vì với tính năng kỹ, chiến thuật của nó, ngay cả khi P-3C Orion bay tuần tra trên bờ biển Việt Nam vẫn tạo ra sức răn đe lớn cho kẻ thù trên vùng biển chủ quyền của Việt Nam.
Mỹ biết Việt Nam cần gì và Mỹ biết Trung Quốc sợ điều gì, Mỹ muốn Việt Nam được trang bị mạnh lên để ngăn chặn Trung Quốc…là ý đồ của Mỹ, là quyền nhận thức của Mỹ. Nhưng với Việt Nam, ai ủng hộ chủ quyền biển đảo Việt Nam là đối tác, là bạn, ai hỗ trợ, bán cho Việt Nam những loại vũ khí tối tân để phòng thủ bảo vệ Tổ quốc mà không có bất cứ điều kiện gì, nằm trong khả năng tài chính, thì Việt Nam sẵn sàng tiếp nhận, mua, không băn khoăn với một tinh thần “Thà nuôi quân đội mình, còn không sẽ phải nuôi quân đội người khác”.
Bán vũ khí cho Đài Loan và…
Vào tháng 3/1979, thông qua “Luật quan hệ với Đài Loan”, Mỹ cam kết bảo vệ kinh tế, chế độ xã hội và an ninh cho Đài Loan. Trung Quốc đã “thử” cái cam kết này trong các lần “khủng hoảng eo biển Đài Loan” nhưng không thành công vì Mỹ tỏ ra hiếu chiến hơn hẳn. Đến nay, vấn đề Đài Loan vẫn là chủ đề nhạy cảm nhất, quan trọng nhất trong quan hệ Mỹ-Trung.
Mỗi khi Mỹ có ý đồ bán vũ khí cho Đài Loan là Trung Quốc nổi giận lôi đình, phản đối kịch liệt và không khó để nhận thức là khi đó Mỹ chơi “con bài Đài Loan” để buộc Trung Quốc phải thỏa hiệp một vấn đề gì đó. Chúng ta đã rõ khi năm 2010, Mỹ đe bán cho Đài Loan gói vũ khí 6,4 tỷ USD và gần đây nhất, ngày18/12/2014, Tổng thống Barack Obama đã đặt bút ký phê chuẩn “Dự luật chuyển giao tàu chiến hải quân”, mở đường cho việc bán 4 tàu khu trục nhỏ Mỹ không còn sử dụng cho Đài Loan khi trước đó, cả Thượng viện và Hạ viện Mỹ thông qua dự luật cho phép bán 4 tàu hộ vệ tên lửa lớp Oliver Hazard Perry cho Đài Loan đã khiên cho Trung Quốc rất tức giận.
Đúng thôi, vì Đài Loan là “lợi ích cốt lõi”, là lãnh thổ của Trung Quốc, bán vũ khí cho Đài Loan chẳng khác nào phủ nhận “một Trung Hoa”, “can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ Trung Quốc, làm tổn hại đến chủ quyền và lợi ích an ninh quốc gia”, khiến Trung Quốc không giãy lên như “đỉa phải vôi” mới là chuyện lạ.
Rõ ràng là việc bán vũ khí cho Đài Loan ra sao, như thế nào, thời điểm…là một đòn cực hiểm “2 trong 1” (chính trị và quân sự) của Mỹ giáng vào Trung Quốc.  
Xét trong mối quan hệ song phương Trung-Mỹ, thì xử lý, hóa giải miếng đòn này vô cùng khó khăn nếu như không nói là bế tắc. Do đó, về lý thuyết, Mỹ có thể tạo ra một cuộc nội chiến tại Trung Quốc (Đại lục và Đài Loan). Tuy nhiên, xét trên mối quan hệ đa phương, chiến lược toàn cầu, thì không phải không có cách để hóa giải, Trung Quốc có thể “bán đứng” ai đó hay thỏa hiệp điều gì đó nhằm bảo vệ lợi ích an ninh cốt lõi, then chốt, của mình như đã từng khi chưa đủ thế lực để đối đầu tay đôi với Mỹ.
Như vậy có thể nói, trên Biển Đông sẽ có rất nhiều “biện pháp hòa bình” trước khi phải dùng biện pháp chiến tranh. Biện pháp hòa bình mà Mỹ sẽ sử dụng như trên sẽ đồng thời tạo thế lực cho Mỹ trước thềm một cuộc xung đột quân sự. Do đó, hãy còn quá sớm để nói tới một cuộc xung đột Trung-Mỹ xảy ra trên Biển Đông khi Mỹ chưa tung ra hết những “biện pháp hòa bình”. Mới đây nhất, khi Biển Đông nóng lên sục sục thì bà Thái Anh Văn, thủ lĩnh Đảng Dân tiến của Đài Loan thăm Mỹ 12 ngày kể từ ngày 29/5, Hoàn Cầu thời báo đang lo sợ trước tuyên bố của 2 cố vấn thân cận của bà Thái Anh Văn là Trương Húc Thành và Kha Thừa Hanh: “Đảng Dân tiến sau khi cầm quyền sẽ từ bỏ chủ trương tuyên bố có chủ quyền tại Biển Đông”.
Quả thật, nếu vậy thì không có gì xấu và nguy hiểm hơn với Trung Quốc. Đài Loan vẫn là một vấn đề hóc hiểm nhất, là tử huyệt của Trung Quốc mà Mỹ quá hiểu.

Liệu trên Biển Đông, Trung Quốc có “lùi” không khi không muốn Việt Nam, mà đặc biệt là Đài Loan được Mỹ vũ trang hùng cứ một phương?