Sự ủng hộ của bạn bè, dư luận trên thế giới cho chính
nghĩa Việt Nam
là chưa đủ. Việt Nam phải chủ động tham gia vào các cơ chế quốc tế về an ninh,
chính trị mới có đủ sức mạnh bảo vệ hòa bình như mong muốn.
Hữu nghị viễn
vông và nền hòa bình lệ thuộc.
“Thứ nhất, không được đánh giá thấp quyết tâm và
năng lực bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc với các đảo trên Nam Hải (Biển Đông);
Thứ hai, không được sử dụng các tư liệu mà Việt Nam tự nhận là “tư liệu lịch
sử” để gây hiểu lầm cho cộng đồng quốc tế và dư luận Việt Nam về chủ quyền ở
Tây Sa, Nam Sa (Hoàng Sa, Trường Sa); Thứ ba, không được lôi kéo các nước khác
can thiệp vào Nam Hải; Cuối cùng là không được phá bỏ mối quan hệ Việt Trung
sau 20 năm bình thường hóa quan hệ”.
Đây là “4 không” mà Tân Hoa xã đưa ra trước
chuyến đi của Dương Khiết Trì sang Việt Nam mang theo một thông điệp cứng
rắn, ngang ngược, không thiện chí, trong các sai phạm của Trung Quốc trên Biển
Đông.
Đương nhiên, thái độ, giọng điệu láo xược của đại
Hán khi chưa bị “no đòn” qua giới truyền thông Trung Quốc (như Tân Hoa xã nêu
trên…) và các học giả, tướng lĩnh khi “chưa thấy quan tài…” thì Việt Nam đã
nghe quen tai từ lâu mà chúng ta không cần quan tâm. Vấn đề rất quan trọng ở
đây là chúng ta nghe, hiểu, để biết được “nền hòa bình Trung-Việt” là nền hòa
bình kiểu gì, mối quan hệ hữu nghị Việt-Trung là hữu nghị kiểu gì…để căn cứ vào
thế, lực của chúng ta hiện nay đến đâu mà phấn đấu gìn giữ hay dứt khoát loại
bỏ.
Từ năm 1949 đến năm 1979, quan hệ “hữu nghị”
Việt-Trung đã quá rõ trong sách trắng “30 năm quan hệ Việt Nam-Trung Quốc”. Và
từ đó đến nay sự “hữu nghị” của Việt Nam-Trung Quốc cũng quá rõ dù chưa viết
thành sách. Vậy, một nền hòa bình trên nền tảng của mối quan hệ “hữu nghị” như
thế sẽ là một nền hòa bình kiểu gì?
Tư tưởng đại Hán này của Trung Quốc chúng ta được
biết qua “4 không” nêu trên là qua báo chí, nhưng chưa hết, chắc chắn sẽ còn
phát tiết qua cấp “vĩ mô” mà người dân không được nghe, không biết…nhưng
như
thế là đã quá đủ cho một nhận thức.
Thủ tướng Việt Nam tuyên bố: “…Việt Nam luôn mong
muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều
thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào
đó”. Đây là tuyên bố mà dân tộc Việt đã phải kiên trì, nhẫn nhịn, chờ đợi, là
tuyên bố mà đồng bào Việt Nam, nhân dân Việt Nam ai cũng hiểu sâu sắc nhất mà không cần giải
thích, không cần thông tư, nghị định hướng dẫn nào hết. Không nghi ngờ gì nữa,
dân tộc Việt đã kết thành một khối.
Có thể nói đây là một tuyên bố khẳng định tính minh
bạch, ý chí và nguyện vọng, nguyên tắc nhất quán của Việt Nam trong mối quan hệ với Trung
Quốc-một nước lớn láng giềng đầy duyên nợ.
Đừng có đặt vấn đề tại sao không phải là trước đây
mà để đến tận bây giờ, bởi vì, nếu như đó là một cuộc cách mạng, một sự thay
đổi…thì tất cả đều phải có sự chuẩn bị về lượng, có đủ lượng mới thay đổi được
chất, phải có “giọt nước cuối cùng” để chuyển hóa… Cho nên, tuyên bố của Thủ
tướng Việt Nam, thay mặt Đảng, Nhà nước, Chính phủ, đã xuất phát từ cơ sở vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế, từ thế và lực của Việt Nam trong khả năng
giữ vững nền độc lập tự chủ, khả năng xây dựng, duy trì một “nền hòa bình chủ
động”…trong tình thế “giọt nước cuối cùng làm tràn ly” là giàn khoan Hải Dương
981 đã ngang ngược bất chấp hạ đặt trong thềm lục địa sâu trong EEZ của Việt
Nam. Đó chính là thời cơ là vận nước đã đến.
Đã đến lúc Việt Nam phải chấp nhận “phẫu thuật”
khối u dù phải đau và tốn kém.
Phải, không đau sao được khi nhìn một quả dưa hấu mà
trâu bò ăn không hết ở cửa khẩu phía Bắc, không đau sao được khi những quả vải
đỏ au của người dân đang nghẹn chật con đường, không đau sao được khi lúa của
người nông dân bị mua với giá rẻ…Đau lắm, tốn kém lắm, nhưng phải “phẫu thuật”
để chúng ta sẽ có một cơ thể khỏe mạnh, tự chủ…để con tim Việt Nam không bao
giờ ứa máu như đã từng trước hình ảnh của “Vòng tròn bất tử Gạc Ma”.
Láng giềng hữu
nghị và hòa bình chủ động.
Việt Nam
chỉ không chấp nhận một quan hệ “hữu nghị viễn vông” nhưng rất muốn có một mối
quan hệ láng giềng hữu nghị với Trung Quốc. Đó là mối quan hệ “sớm tối tắt lửa
tối đèn có nhau, giúp đỡ nhau trong hoạn nạn (láng giềng), đồng thời tôn trong
độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, hợp tác phát triển đôi bên cùng có lợi.
Đương nhiên, nền hòa bình dựa trên nền tảng hữu nghị
đó là bền vững cho 2 dân tộc.
Trung Quốc là nước lớn, là cường quốc, là quốc gia
có “núi liền núi, sông liền sông” với Việt Nam . Việt Nam muốn hòa bình (với
Trung Quốc), nhưng bản chất của Trung Quốc là không thay đổi là bành trướng,
cậy mạnh, để thôn tính Biển Đông thì không bao giờ có một một mối quan hệ hữu
nghị láng giềng thực chất, và do vậy, nền hòa bình với Trung Quốc chỉ có được
cho Việt Nam là theo “kiểu Trung Quốc”, là thụ động, lệ thuộc mà thôi.
Việt Nam yêu chuộng hòa bình nhưng một nền hòa bình
không lệ thuộc thì chỉ còn cách là phải thực hiện chiến lược “hòa bình chủ động”
để từ đó mới có được một nền hòa bình chủ động
Hòa bình chủ động là gì? Đó là, về đối nội phải tăng cường sức mạnh răn đe ngăn ngừa chiến
tranh, về đối ngoại là sự chủ động tham gia vào các cơ chế
quốc tế về kinh tế đồng thời quan trọng hơn, là về cả an ninh lẫn chính trị.
Nền hòa bình chủ động chúng ta có
được là bằng sức mạnh răn đe ngăn ngừa chiến tranh, là ý chí, khả năng giáng
trả để bảo vệ nó. Khác với nền hòa bình chủ động, nền hòa bình thụ động chỉ có
được chỉ bằng sự nhân nhượng, đổi chác lợi ích.
Hãy xem Nhật Bản. Trên lý thuyết, được bảo vệ dưới
cái ô an ninh của Mỹ, nước Nhật khó bị đe dọa, nhưng sự trỗi dậy của Trung Quốc
cùng với các yêu sách chủ quyền hung hăng từ Bắc Kinh khiến cho nước Nhật chắc
chắn không bao giờ chấp nhận một vai trò thụ động và trông chờ vào người Mỹ,
ngay dù Mỹ là đồng minh, huống chi, thụ động trông chờ vào Trung Quốc-đối tượng
tác chiến trực tiếp, như Việt Nam, thì lại càng không bao giờ. Mối quan hệ Nhật
Bản-Ấn Độ, Nhật Bản-Úc, Nhật Bản-Philipines, Indonesia, Việt Nam để “hòa bình chủ
động” với Trung Quốc chứng tỏ điều đó.
Trong khi đó, Việt Nam không có ô an ninh nào, nói
cách khác là Việt Nam chưa có tham gia vào một “cơ chế” an ninh, chính trị nào
trong khu vực. Nếu sức mạnh (tổng hợp) răn đe ngăn ngừa chiến tranh hạn chế,
chưa đủ sức làm cho kẻ thù phải trả giá đắt không chịu đựng nổi thì một nền hòa
bình Việt Nam
có được với Trung Quốc cũng chỉ là thụ động mà thôi, không thể khác được, trừ
phi Trung Quốc thay đổi bản chất. (Tiếp theo: Cơ chế an ninh nào phù hợp cho Việt Nam?)
Bỏ biển đảo sang 1 bên, mai vô QT nhậu với em nhé ! Nhắn tin rồi đó nhớ vô nghe, chỉ mời ngày mai thôi, các ngày khác của cả năm nỏ mời (~_~)
Trả lờiXóanỏ mời thì nỏ đi
XóaMời vô nỏ chộ họ vô
Trả lờiXóaLại còn ước gì anh vào Cồn Cỏ nựa chứ, sang nhà em măm bánh ca tô đi (~_~)
Trong ni nóng khủng khiếp, ngoài nớ chắc mát hơn khúc ruột miền trung mình anh hè ? Bảo trọng nhé chàng Cá mập ơi (~_~)
Trả lờiXóaNgười ta lại nặn ra luật nữa rồi kìa bác Thống ơi! Nếu cứ ko chắc chắn thì ko dám làm thì có ngày ko dám đánh giặc vì ko chắc thắng đâu. Giặc đến tận cửa rồi còn bắt tay thân tình hợp tác gì nữa?
Trả lờiXóađúng đó bạn
XóaAnh thống viết blog tiếp đi chứ, bao người chờ.Hay bác được chỉ đạo thôi không Blog!
Trả lờiXóaChả có "bố con thằng nào" chỉ đạo được tớ hết. Quả thật cũng có nhiều việc phải làm nên hôm nay mới đọc Blog của mình đấy.
XóaChả có "bố con thằng nào"
Xóa..................................
Anh chàng Cá Mập dạo ni ăn nói bặm chợn ghê (~_~)
Hôm qua thấy chủ tịch nác thăm thành phố biển và BLV, anh có đc bắt tay chủ tịch nác ko rứa anh Cá Mập ơi ? Tàu nó rút giàn khoan rồi chắc vì nó sợ bão cuốn chứ em nghĩ nó ko bỏ cuộc sớm vậy đâu
Trả lờiXóaBảo trọng nhé ! Chúc vạn sự bình yên hỡi biển đảo thân yêu (~_~)